WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Kv 17.9 Bất Ngôn Cúng Tăng Đa Quả Ngữ

Vi Diệu Pháp
Abhidhamma

Bộ Ngữ Tông
Kathāvatthu

Mahāpaṇṇāsaka

Phẩm Thứ Mười Bảy
Sattarasamavagga

Navattabbaṁsaṅghassadinnaṁmahapphalantikathā

1722.

Tự ngôn: Chớ nên nói bố thí cúng dường đến Tăng có quả phước phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Na vattabbaṁ—“saṅghassa dinnaṁ mahapphalan”ti? Āmantā.

Tự ngôn: Tăng thành bực đáng cúng dường, thành bực đáng nghinh tiếp, thành bực đáng làm phước, thành bực đáng xá kỉnh, thành phước điền cao thượng của đời phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Nanu saṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṁ puññakkhettaṁ lokassāti? Āmantā.

Tự ngôn: Nếu mà Tăng thành bực đáng cúng dường, thành bực đáng nghinh tiếp … thành phước điền cao thượng của đời, chính do nhân đó mới có nói rằng bố thí cúng dường Tăng có quả nhiều.
Hañci saṅgho āhuneyyo …pe… anuttaraṁ puññakkhettaṁ lokassa, tena vata re vattabbe—“saṅghassa dinnaṁ mahapphalan”ti.

1723.

Tự ngôn: Chớ nên nói bố thí cúng dường đến Tăng có quả nhiều phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Na vattabbaṁ—“saṅghassa dinnaṁ mahapphalan”ti? Āmantā.

Tự ngôn: Đức Thế Tôn Ngài có nói bốn đôi trượng phu, tám người trượng phu thành bực đáng làm phước phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Nanu cattāro purisayugā aṭṭha purisapuggalā dakkhiṇeyyā vuttā bhagavatāti? Āmantā.

Tự ngôn: Nếu mà Đức Thế Tôn Ngài nói bốn đôi trượng phu, tám người trượng phu là thành bực đáng làm phước, chính do nhân đó mới nói có nói rằng bố thí cúng dường đến Tăng có quả nhiều.
Hañci cattāro purisayugā aṭṭha purisapuggalā dakkhiṇeyyā vuttā bhagavatā, tena vata re vattabbe—“saṅghassa dinnaṁ mahapphalan”ti.

1724.

Tự ngôn: Chớ nên nói bố thí đến Tăng có quả nhiều phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Na vattabbaṁ—“saṅghassa dinnaṁ mahapphalan”ti? Āmantā.

Tự ngôn: Đức Thế Tôn Ngài có phán rằng: “Này Gotami, người nên dưng đến Tăng, khi người dưng đến Tăng rồi sẽ đặng gọi là cúng dường Như Lai tức là cúng dường Tăng luôn”. Đây là bài Kinh vẫn thật có phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Nanu vuttaṁ bhagavatā—“saṅghe, gotami, dehi, saṅghe te dinne ahañceva pūjito bhavissāmi saṅgho cā”ti. Attheva suttantoti? Āmantā.

Tự ngôn: Nếu thế đó cúng dường đến Tăng cũng có quả nhiều chớ gì.
Tena hi saṅghassa dinnaṁ mahapphalanti.

1725.

Tự ngôn: Chớ nên nói cúng dường đến Tăng có quả nhiều phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Na vattabbaṁ—“saṅghassa dinnaṁ mahapphalan”ti? Āmantā.

Tự ngôn: Đức Đế Thích là chúa của Chư thiên cầu hỏi với Phật như vầy: “Tất cả nhân loại người sẽ cúng dường là người tìm phước khi sẽ làm phước phần đạt luân hồi, bố thí nơi đâu mới sẽ có quả nhiều? Đức Thế Tôn Ngài phán rằng: “Bực người đình trụ trong bốn quả và bực người đình trụ trong bốn đạo, đây gọi là Tăng thành người chơn chánh, gìn giữ Giới, Định, Tuệ. Tất cả nhân loại người sẽ cúng dường bực làm phước hầu sẽ làm phước phần đạt luân hồi bố thí đến Tăng đây mới sẽ có quả nhiều như vậy. Kỳ thật Tăng đây rộng rãi to tát không bờ mé cũng như biển cả, những Ngài ấy là bực rất đặc biệt thành đệ tử của Phật, thành anh hùng của dũng nhân, thành bực làm cho sáng suốt vẫn truyền bá pháp. Người nào bố thí hồi hướng Tăng, những người ấy gọi là đã bố thí tốt, đã cúng dường tốt, đã cúng tế tốt, bố thí mà đã quyết ngay trong Tăng đó có quả nhiều thì Đức Phật Ngài khen ngợi, những người nào nhớ đến cách cúng dường thế này thành bực có sự vui mừng dạo đi trong đời, hạn chế trần uế tức là sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, thành bực mà trí thức không chê trách vào đến cơ sở (ṭhāna) tức là Thiên đường”. Như đây là bài Kinh vẫn thật có phải chăng? Phản ngữ: Phải rồi.
Nanu sakko devānamindo bhagavantaṁ etadavoca—

“Yajamānānaṁ manussānaṁ,
puññapekkhāna pāṇinaṁ;
Karotaṁ opadhikaṁ puññaṁ,
kattha dinnaṁ mahapphalan”ti.

“Cattāro ca paṭipannā,
cattāro ca phale ṭhitā;
Esa saṅgho ujubhūto,
paññāsīlasamāhito.

Yajamānānaṁ manussānaṁ,
puññapekkhāna pāṇinaṁ;
Karotaṁ opadhikaṁ puññaṁ,
saṅghe dinnaṁ mahapphalanti.

Eso hi saṅgho vipulo mahaggato,
Esappameyyo udadhīva sāgaro;
Ete hi seṭṭhā naravīrasāvakā,
Pabhaṅkarā dhammamudīrayanti.

Tesaṁ sudinnaṁ suhutaṁ suyiṭṭhaṁ,
Ye saṅghamuddissa dadanti dānaṁ;
Sā dakkhiṇā saṅghagatā patiṭṭhitā,
Mahapphalā lokavidūna vaṇṇitā.

Etādisaṁ yaññamanussarantā,
Ye vedajātā vicaranti loke;
Vineyya maccheramalaṁ samūlaṁ,
Aninditā saggamupenti ṭhānan”ti.

Attheva suttantoti? Āmantā.

Tự ngôn: Nếu thế đó, bố thí cúng dường đến Tăng thời có quả nhiều chớ gì.
Tena hi saṅghassa dinnaṁ mahapphalanti.

Dứt Bất ngôn cúng Tăng đa quả ngữ.
Na vattabbaṁ saṅghassa dinnaṁ mahapphalantikathā niṭṭhitā.