Thiền Và 40 Đề Mục Thiền
Mahāsi Sayādaw
Dịch Việt
Dhanapālaka
Khi đó, các hiện tượng nơi thân như phồng, xẹp, co, duỗi v.v…được thấy trong mỗi khoảnh khắc với cái thấy tách biệt mà không bị lẫn lộn giữa tâm ghi nhận với các đối tượng khác xuất hiện nơi thân. Các đối tượng của tâm, như: ghi nhận, suy nghĩ, âm thanh, v.v… cũng được nhận biết trong từng khoảnh khắc, mà sự nhận biết này không lẫn lộn với các hiện tượng khác sanh khởi nơi thân hay nơi tâm. Tại mỗi khoảnh khắc thở vào, thở ra, thiền sinh nhận biết thân và tâm rõ ràng là hai đối tượng tách biệt nhau.
Sự phân biệt này được gọi là tuệ phân biệt danh và sắc hay tuệ phân biệt danh sắc (nāma-rūpa-pariccheda-ñāṇa).
Khi tuệ giác này được phát triển bằng cách ghi nhận liên tục, thì sẽ có được sự hiểu biết chỉ có hai đối tượng là thân và tâm. Thân không có khả năng nhận biết sự phồng, xẹp, co, cử động, v.v… Còn tâm có khả năng ghi nhận, suy nghĩ, thấy, nghe, v.v… Ngoài thân và tâm thì không có cái chi gọi là ngã.
Sự hiểu biết này gọi là Kiến Thanh Tịnh (diṭṭhi visuddhi).
Khi tiếp tục ghi nhận, thiền sinh sẽ thấy rằng tất cả các hiện tượng nơi thân và tâm đang xuất hiện có mối liên hệ nhân quả với nhau.
Ví dụ: Thiền sinh thấy rằng bởi vì Tâm muốn co, duỗi, cử động hay thay đổi tư thế nên mới xuất hiện các hành động co, duỗi, cử động hay thay đổi; bởi do nhiệt độ thay đổi nên mới có sự thay đổi về cảm giác nóng hoặc lạnh; bởi do có sự ăn uống thì mới năng lượng để nuôi dưỡng cơ thể. Lại nữa, thiền sinh có thể biết được sự thật là, bởi vì có mắt và vật nhìn thấy nên mới có cái thấy, bởi vì có tai và vật phát ra âm thanh nên mới có cái nghe, v.v… và do có sự hướng tâm, nên tâm mới nắm bắt và bám lấy đối tượng. Rồi, thiền sinh biết được sự thật là, do vô mình hay ảo tưởng nên chúng ta mới xem cuộc đời này là tốt đẹp, là hạnh phúc. Vì tham ái nên dẫn đến mọi hành động. Bởi vì chấp thủ, bám víu vào những hành động đã tạo nên một chuỗi Thức. Tiếp tới, thiền sinh sẽ biết được cái chết chẳng qua chỉ là chấm dứt Thức trong kiếp cũ (Tử tâm) và tái sanh lại cùng với Thức mới trong kiếp sau (thức tái sanh) với Thân hay vật chất tương xứng với Thức mới ấy.
Đây gọi là tuệ phân biệt nhân quả (paccaya-pariggaha-ñāṇa).
Khi hiểu được tiến trình của nhân và quả, thiền sinh sẽ biết rằng “Thân và Tâm đã sanh khởi trong quá khứ là do nhân, cũng vậy, Thân và Tâm sẽ sanh khởi trong vị lai cũng do nhân tương xứng tạo tác”.
Cái thấy, cái biết thanh tịnh này là đoạn nghi thanh tịnh (kaṅkhāvitaraṇa visuddhi).
Trước khi phát triển sự hiểu như thật rằng “chúng sanh bao gồm cả thân và tâm, mà thân và tâm này sanh ra bởi nhân tương xứng”, có những hoài nghi là liệu “có” có từng tồn tại trong khá khứ không, hay “tôi” đang ở trong hiện tại không, hay “tôi” sẽ tiếp tục tồn tại trong tương lại không? Những hoài nghi này sẽ không sanh khởi nữa, vì thiệt sinh đã vượt qua chúng.
Khi sự ghi nhận sâu sắc hơn, thiền sinh nhận thấy các đối tượng của thân và tâm đang sanh và diệt trong mỗi khoảnh khắc ghi nhận.
Đây là tuệ thấu đạt về vô thường (anicca-sammasana-ñāṇa).
Khi thấy các đối tượng của thân và tâm liên tục bị ảnh hưởng bởi tiến trình sanh – diệt, các đối tượng ấy thật khó chịu, chúng tạo ra những khổ đau thật mãnh liệt.
Đây là tuệ thấu đạt về khổ (dukkha-sammasana-ñāṇa).
Khi thấy bản chất của các đối tượng thân và tâm vận hành đúng theo thật tánh của chúng, mà thiền sinh chẳng thể nào ra lệnh hay bắt chúng vận hành theo ý muốn của mình, thiền sinh sẽ nhận ra các đối tượng này là vô ngã (anatta).
Đây là tuệ thấu đạt vô ngã (anatta-sammasana-ñāṇa).
Sau khi đã ghi nhận các thật tánh trên, thiền sinh tiếp tục ghi nhận mà không cần phải suy nghĩ gì thêm. Rồi thiền sinh ấy sẽ thấy rõ sự sanh khởi của mọi đối tượng mà mình ghi nhận. Thiền sinh sẽ thấy sự biến mất rõ ràng của mỗi đối tượng ghi nhận như thể chúng bị cắt đứt đi mất.