Giảng giải Kinh Mālukyaputta
Mahāsi Sayādaw
Dịch Việt
Dhanapālaka
Nội dung
Kinh Mālukyaputta giảng dạy cho chúng ta kiến thức căn bản về nguyên lý của thiền minh sát (vipassanā). Bài kinh này thuộc Kinh Tương Ưng SN 35.95, và hai mươi bài kệ trong bài kinh này cũng được tìm thấy trong Vīsatinipāta của Theragāthā. Bài kinh này được Đức Phật giảng cho Tỳ-khưu Mālukyaputta y theo lời thỉnh cầu của vị ấy. Tỳ-khưu Mālukyaputta là con trai của tín nữ tên Mālukyā (Māluṅkyā theo ấn bản Srri Lanka). Vị ấy đã thỉnh cầu Đức Phật như vầy:
“Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe pháp của Thế Tôn, con sẽ quyết tâm sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần”.
“sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṁ desetu, yamahaṁ bhagavato dhammaṁ sutvā eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto vihareyyan”ti.
Trên thực tế, Tỳ-khưu Mālukyaputta đang thỉnh cầu Đức Phật một đề mục để hành thiền để vị ấy thực hành ở nơi yên tĩnh. Sự yên tĩnh là điều cần thiết cho thiền định, vì nó hỗ trợ cho sự tập trung hay định tâm, còn khi sống chung với người khác thì sự tập trung dễ bị xáo trộn. Tuy nhiên, nếu không có được sự yên tĩnh ấy, thì tốt nhất việc của ai người nấy lo. Trong những trường hợp như vậy, một người không nên nói, thậm chí không nên nhìn người khác để xem họ đang làm gì, mà người ấy chỉ nên hoàn toàn tập trung tâm ý vào Pháp.
Không Phóng Dật (Cảnh Giác)
Từ ‘appamatto’ trong bài kinh có nghĩa là ‘không phóng dật hay cảnh giác’. Điều này rất quan trọng. Ở trung tâm thiền này, thiền sinh phải thường xuyên sống cảnh giác, không bao giờ quên rằng mình đang nỗ lực để chứng ngộ Giáo Pháp. Khi thiền sinh thấy một đối tượng, thiền sinh phải ghi nhận nó với tâm cảnh giác. Khi thiền sinh nghe, ngửi, nếm, chạm hay suy nghĩ, thiền sinh phải có chánh niệm trong khi nghe, ngửi, nếm, chạm, hay suy nghĩ. Mọi chuyển động nhỏ nhất phải được chú ý, quán sát. Thiền sinh luôn giữ cho tâm trí luôn tỉnh táo và không bao giờ để cho sự phóng dật (lơ là) chi phối mình.
Nhiệt Tâm
Bài kinh sử dụng từ ‘ātāpī’, nghĩa gốc của từ này có nghĩa là làm nóng lên. Khi một người nhiệt tâm thì đồng nghĩa với việc ātāpī đang hoặc động. Nhiệt gây ra sự bốc hơi của hơi ẩm. Sự nhiệt tâm làm bay hơi mọi phiền não (kilesā), giống như ruồi bay lượn quanh một thanh sắt nóng đỏ. Khi lòng nhiệt tâm yếu đi, các phiền não xâm nhập vào tâm qua sáu căn và hành hạ những ai không ghi nhận sự sanh diệt của các pháp hữu vi. Phiền não không có chỗ đứng trong tâm của một thiền sinh chánh niệm, tỉnh giác. Trong kinh điển, tâm ô nhiễm ví như một thân cây tươi chứa đầy nhựa sống. Khi thực hành thiền với lòng nhiệt tâm, các phiền não sẽ bay hơi khỏi tâm, khiến tâm trở nên khô ráo và trong sạch.
Tinh Cần (Chánh Tinh Tấn)
Có bốn loại chánh tinh tấn (sammappadhāna):
1. Tinh tấn ngăn chặn sự phát sanh của các trạng thái bất thiện chưa sinh khởi.
Cách làm này giống như biện pháp ngăn ngừa các bệnh truyền nhiễm. Chắc chắn chúng ta sẽ phải đối mặt với các ác, bất thiện pháp trong cuộc sống hàng ngày nên chúng ta phải
2. Thứ hai là nỗ lực loại bỏ những trạng thái bất thiện đã phát sanh và ngăn chặn chúng tái diễn.
Chúng ta phải cố gắng từ bỏ những khuynh hướng hướng tới những điều bất thiện mà chúng ta dễ dàng mắc phải, nếu không thì chúng sẽ chế ngụ, điều khiển chúng ta. Cái thấy, cái nghe, cái biết, v.v… kích thích những khuynh hướng tiềm ẩn, vốn là căn nguyên sâu xa của phiền não. Những khuynh hướng tiềm ẩn như vậy được kích thích bởi các đối tượng giác quan, được gọi là ‘ārammaṇanusaya kilesā.’ Chỉ khi nào thiền sinh chứng được đạo, mọi khuynh hướng tiềm ẩn sẽ chấm dứt hoàn toàn.
3. Thứ ba là tinh tấn trau dồi các thiện nghiệp chưa sanh.
Thiện pháp phải được tích luỹ thông qua việc thực hành bố thí, trì giới và tu thiền. Sư đặc biệt khuyến khích mọi người nên thực hành thiền minh sát. Còn nếu ai đã đang thực hành thiền minh sát để đạt được tuệ giác, hãy tiếp tục cho đến khi chứng đạt được Đạo.
4. Cuối cùng là nỗ lực phát triển các thiện nghiệp đã sanh cho đến khi chứng đạo.
Một thiền sinh phải đạt được tất cả bốn loại chánh tinh tấn này trong quá trình hành thiền.
Quyết Tâm
‘Pahitatto’ thường được dịch là ‘quyết tâm hướng tới Nibbāna.’ Hiểu theo nghĩa đen, một số người cho rằng không cần thiết phải thực hành thiền khi người ta đã đưa tâm hướng tới Niết-bàn. Điều này trái ngược với lời dạy trong kinh điển. Ý nghĩa của từ này là một người nên nỗ lực thực hành không kể mạng sống và thân thể, tập trung tâm (định tâm) vững chắc vào việc chứng ngộ đạo, quả và Niết-bàn. Điều này phù hợp với lời dạy trong kinh Sīlakkhandha đề cập tới vấn đề tu tâm.
Lời Sách Tấn Của Đức Phật
Đức Phật trả lời Mālukyaputta như sau:
“Ở đây, này Mālukyaputta, nay Ta nói gì với các Tỷ-kheo trẻ tuổi, khi Ông là một Tỷ-kheo già yếu, niên cao, đại lão, đã đến tuổi trưởng thượng, đã đến cuối cuộc đời, lại yêu cầu Ta giáo giới một cách vắn tắt?”
“Ettha dāni, mālukyaputta, kiṁ dahare bhikkhū vakkhāma. Yatra hi nāma tvaṁ, bhikkhu, jiṇṇo vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto saṅkhittena ovādaṁ yācasī”ti.
Những lời này của Đức Phật có thể xem đây vừa là vời khiển trách, vừa là lời chấp thuận. Vị Tỳ-khưu già đã không phấn đấu vì Giáo Pháp lúc còn trẻ. Chỉ khi đã gần đất xa trời thì ông mới nói đến việc an trú trong Giáo Pháp. Ở khía cạnh này, lời khuyên của Đức Phật có thể là lời khiển trách. Tuy nhiên, Tỳ-khưu Mālukyaputta đã quyết tâm sống một cuộc sổng ẩn sĩ mặc dầu tuổi đã cao. Các Tỳ-khưu trẻ sẽ nói gì về điều này? Các vị ấy chắc chắn sẽ nói gương vị Tỳ-khưu già ất. Trong bối cảnh này, có thể hiểu rằng Đức Phật đã hết lời khen ngợi ông. Nếu những vị Tỳ-khưu trẻ tuổi thấy những vị Tỳ-khưu già phấn đấu hết mình để chứng ngộ Giáo Pháp, họ cũng nên cố gắng noi theo.
Vì Tỳ-khưu Mālukyaputta lặp lại lời yêu cầu của mình, Đức Phật đã dạy vị ấy những điều cơ bản của thiền minh sát bằng cách đặt ra một loạt câu hỏi để trình bày phương pháp thiền minh sát.