WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Thiên Nữ Uposathā

Nền Tảng Hành Thiền Minh Sát

Pháp Thoại
Mahāsi Sayādaw

Dịch Việt
Dhanapālaka

Vào thời Đức Phật, có một nữ nhân trẻ tên là Uposathā, sống tại Sāketa, nước Kosala thuộc Trung Ấn. Cô đã sống trong Pháp và chứng đắc Đạo Quả Nhập Lưu. Khi qua đời, cô tái sanh ở cõi Tam Thập Tam (Tāvatiṃsa) trong một lâu đài nguy nga. Một ngày nọ, Đại Đức Moggallāna (Mục Kiền Liên) gặp vị Thiên Nữ này trong một chuyến đi dạo trên cõi trời. Các vị tỳ khưu trong thời này đã là các Bậc Thánh A-la-hán và có được các Pháp Thượng Nhân (Thần Thông). Các vị ấy có thể du hành đến các cõi của Chư Thiên, nhìn thấy Thiên Chúng bằng thiên nhãn và nghe được âm thanh của Thiên Chúng bằng thiên nhĩ. Ngày nay, tìm được một vị tỳ khưu như vậy thật là hy hữu. Chúng ta không thể đi đến cõi trời. Dầu cho đến được, chúng ta cũng không thể nhìn thấy họ. Chưa nói tới các vị Thần ở cõi cao hơn, ngay cả những vị thần trên Quả Đất này chúng ta thậm chí còn không thể nhìn thấy được, chẳng hạn: các vị thần ngự trên cây hoặc bảo vệ kho báu.

Đại Đức Moggallāna thường du ngoạn các cõi Trời bằng thần thông. Vì Ngài muốn hỏi các vị Chư Thiên trước kia đã làm gì mà nay được tái sanh tại nơi này. Các vị đã làm những điều thiện gì mà xứng đáng được hưởng hạnh phúc nơi Thiên Giới. Đại Đức Moggallāna có thể biết được những việc làm trong quá khứ của các vị Thần mà không cần phải hỏi, nhưng Ngài muốn tự các vị Thần thuật lại.

Khi Ngài Đại Trưởng Lão đến cung điện của Thiên Nữ Uposathā, nàng chào đón Ngài Trưởng Lão. Đại Đức Moggallāna hỏi Thiên Nữ ấy rằng:

“Này Thiên Nữ, nàng lộng lẫy như ánh sáng của sao mai. Nàng đã làm thiện pháp gì mà có được sự huy hoàng và hạnh phúc này?”

Thiên Nữ trả lời:

“Kính Bạch Ngài, con tên là Uposathā, một nữ nhân sống ở Sāketa. Con nghe theo lời dạy của Đức Phật, con có được niềm tin vào Pháp và trở thành một người nữ cư sĩ. Con quy y, nương tựa vào Tam Bảo”.

Đặt niềm tin hay nương tựa vào Tam Bảo có nghĩa là Quy Y. Chúng ta có được điều này bằng cách niệm đọc rằng:

“Con xin quy y Phật”.

“Con xin quy y Pháp”.

“Con xin quy y Tăng”.

Đức Phật là bậc biết tất cả các Pháp. Sau khi tự mình chứng ngộ Niết-bàn, chấm dứt mọi khổ đau: già, bịnh, chết, Ngài đã thuyết Pháp cho những chúng sanh nghe để họ cũng có thể tận hưởng được niềm vui của Niết-bàn. Nếu y theo lời dạy của Đức Phật, chúng ta có thể tránh được bốn đoạ xứ (bốn khổ cảnh) và đạt tới sự giải thoát khỏi mọi đau khổ. Có lòng tin vào điều này, là chúng ta quy y Phật.

Khi chúng ta bị bịnh, chúng ta phải có lòng tin nơi Bác Sĩ. Chúng ta phải tin tưởng Bác Sĩ và nghĩ rằng:

“Bác sĩ này là một chuyên gia. Ông có thể chữa khỏi bịnh cho ta”.

Tương tợ vậy, chúng ta phải đặt lòng tin vào Đức Phật, biết rằng:

“Chúng ta sẽ được giải thoát khỏi mọi đau khổ nếu hành theo lời Phật dạy”.

Tuy nhiên, một số người không đánh giá cao tầm quan trọng của vấn đề này. Họ chỉ đọc tụng, lặp lại vì cha mẹ hay thầy tổ của họ bắt họ lặp lại. Đây không phải là cách đúng đắn. Chúng ta phải biết ý nghĩa, suy ngẫm về Ân Đức Phật và lặp lại một cách chậm rãi. Nếu chúng ta không thể làm điều này mọi lúc, nhưng ít nhất thỉnh thoảng hãy làm như vậy.

Khi chúng ta nói: “Con xin quy y Pháp”, chúng ta phải đặt lòng tin vào lời dạy của Đức Phật – những lời dạy về Đạo, Quả và Niết Bàn. Chúng ta xác nhận lòng tin này bằng việc thực hành những lời dạy hay giáo lý này sẽ giúp chúng ta thoát khỏi bốn khổ cảnh và mọi khổ đau trong vòng sanh tử.

Khi chúng ta nói: “Con xin quy y Tăng”, nghĩa là chúng ta đang đặt lòng tin vào các Bậc Thánh Tăng, những vị nhờ thực hành Pháp hay thực hành theo lời dạy của Đức Phật đã đạt được hoặc sắp đạt được Đạo Quả.

Chúng ta có lòng tin rằng việc nương tựa vào Tăng sẽ giúp chúng ta thoát khỏi khổ cảnh và vòng sanh tử luân hồi. Một người nam đã thọ Tam Quy gọi là “Cận Sự Nam” hay “upāsaka”, còn người nữ được gọi là “Cận Sự Nữ” hay “upāsikā”. Trở thành một upāsaka hay một upāsikā là một thiện pháp sẽ dẫn tới cõi trời.

“Ai quy y Phật, người ấy sẽ không rơi không rơi vào khổ cảnh. Sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sẽ đi đến cọng trú với Thiên Chúng”1D.ii.255..

Thiên Nữ Uposathā cũng đã làm những việc phước thiện như vậy. Nàng nói tiếp:

“Kính Bạch Ngài, con đã giữ Giới, Bố Thí và thọ trì Uposatha (Bát Quan Trai Giới)”.

Những người không biết Pháp sẽ cười nhạo việc Thọ trì Uposatha là:

“Nếu bạn giữ Uposatha, bạn sẽ bị đói!”

Họ không biết việc gì là tốt, việc gì là xấu. Họ không biết làm cách nào để vượt qua sự ham ăn, ham uống, vượt qua sự tham lam để tạo thiện nghiệp. Tuy nhiên, họ có thể biết được việc nhịn ăn có thể tốt cho một số căn bịnh và sau đó họ tán thán, ca ngợi điều đó. Họ chỉ hiểu ở giới hạn vật chất phúc lợi mà thôi. Họ không biết gì về Tâm và đời sống sau khi chết. Việc thọ trì Uposatha đòi hỏi một người phải ngăn chặn những tư tưởng xấu ác khởi lên và trau dồi những tư tưởng tốt, như là: sự thu thúc và kiên nhẫn suốt một ngày một đêm.

Người ấy nghĩ:

“Suốt đời, các vị thánh A-la-hán tránh những hành động bất thiện như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, say sưa và ăn phi thời. Ta sẽ noi gương các vị ấy trong một ngày đêm bằng cách làm theo những điều như vậy”.

Một người phải suy nghĩ như vậy khi thọ trì Uposatha. Khi cảm thấy bị đói, chúng ta kiểm soát bản thân và cố gắng loại bỏ những phiền nam tham lam. Đây là một việc làm tốt đẹp. Khi những suy nghĩ cao quý như vậy khởi lên trong tâm mình, vì vậy tâm trở nên thanh tịnh. Nó giống như việc chúng ta nhịn ăn để làm sạch đường ruột khi bị bịnh. Vì tâm thanh tịnh nên khi chúng ta rời bỏ thân xác này với thức thanh tịnh, chúng ta sẽ tái sanh vào cõi người hoặc cõi trời.

Thiên Nữ Uposathā nói tiếp:

“Kính Bạch Ngài, con đến sống trong lâu đài này là kết quả của sự tri túc và bố thí”.

Ở đây, sự tri túc rất là quan trọng. Ngay cả trong thế gian này, nếu chúng ta sống không có tri túc thì chúng ta sẽ sớm trở nên nghèo khó. Nếu không có sự tri túc trong hành động, chúng ta sẽ mắc các bịnh truyền nghiệm hoặc phạm tội. Đối với kiếp sau, sự tri túc rất là quan trọng vì nó giúp thanh lọc tâm. Bố thí có thể đưa chúng ta tới cõi trời, đây là sự hiểu biết cơ bản của một người cư sĩ.

Rồi, Thiên Nữ nói tiếp:

“Kính Bạch Ngài, con biết những Chơn Lý Cao Thượng”.

Đây là cái biết đúng theo chơn lý được các Bậc Thánh biết tới. Khi chúng ta tự mình hiểu được sự thật này, chúng ta sẽ trở thành một bậc Thánh. Sự thật đây là chơn lý về khổ, chơn lý về nguyên nhân của khổ, chơn lý về sự diệt khổ và chơn lý về con đường đưa tới sự chấm dứt khổ. Và quan trọng nhất là con đường đưa tới sự chấm dứt khổ. “Biết Thánh Đế” không phải là cái biết được nghe, mà là cái biết được chứng ngộ. Chúng ta nên biết rõ chúng, từ bỏ cái cần phải từ bỏ, nhận ra sự chấm dứt và tự mình phát triển Đạo Lộ. Đây cũng là điều mà Chú Giải giải thích. Sự thật của khổ là năm uẩn dính mắc. Ghi nhận các uẩn để biết chúng như thật là hiểu biết sự thật về khổ. Khi tiếp tục ghi nhận, chúng ta sẽ thấy các uẩn sanh diệt như thế nào và đau khổ cũng sẽ y như thế ấy. Chúng ta chỉ có thể hiểu được điều này khi có hành thiền. Khi chúng ta đạt tới Thánh Đạo, chúng ta sẽ thấy Niết Bàn, đó là sự chấm dứt Khổ. Khi suy tư, chúng ta hiểu rằng bất cứ điều gì chưa đoạn diệt, chúng đều là khổ. Chỉ lúc nào Đạo sanh khởi, chúng ta mới có sự hiểu biết thật sự. Chúng ta nên có sự hiểu biết từ việc ghi nhận đối tượng thay vì suy tư.

Khi chúng ta hành thiền, không thể nào có sự dính mắc vào đối tượng đang được ghi nhận. Đây là sự hiểu biết bằng cách xả bỏ. Trong khi ghi nhận, không có tham ái hay dính mắc nào sanh khởi đối với các đối tượng mà chúng ta đã thấy chúng là vô thường, khổ và vô ngã. Thế là tham ái bị dập tắt. Đây là cách hiểu khi chúng ta hành thiền. Khi chúng ta nhận ra Thánh Đạo và Niết-bàn, chúng ta sẽ không còn sự mong muốn nào sanh khởi đối với Đạo Lộ. Với Đạo Quả Nhập Lưu, mọi tham ái thô thiển có thể dẫn chúng ta xuống những khổ cảnh bị đoạn diệt. Đoạn tận mọi tham ái dục lạc, chúng ta sẽ chứng ngộ Đạo Quả Bất Lai. Với Đạo Quả A-la-hán, mọi tham ái cuối cùng đều đi đến diệt tận.

Bất cứ khi nào chúng ta ghi nhận, phiền não sẽ không sanh khởi, không có nghiệp hay đau khổ nào phát sanh đối với các đối tượng đang được ghi nhận. Tất cả đều bị dập tắt. Sự chấm dứt đau khổ như vậy được kinh nghiệm với mỗi hành động ghi nhận. Đây là cách chúng ta nhận ra sự thật của đoạn diệt hay diệt đế. Vào khoảnh khắc của Thánh Đạo, chúng ta chứng ngộ Niết-bàn. Mỗi khi chúng ta hành thiền, chánh kiến về bản chất thực sự của thân và tâm sanh khởi. Một khi chánh kiến phát sanh thì những tâm sở đi như: chánh tư duy cũng sanh khởi. Như vậy là chúng ta đã giải quyết xong. Phát triển tám chi của Đạo Lộ cũng là phát triển Đạo. Đây là cách chúng mà chúng ta hiểu trong lúc hành thiền. Vào khoảnh khắc Thánh Đạo, tám chi phần sanh khởi và chứng ngộ Niết-bàn. Chúng ta đạt được Đạo và Quả, đồng thời có thể suy tư về cách hình thành của Thánh Đạo. Đây cũng là sự hiểu biết.

Thật vậy, nếu chúng ta hiểu được thân và tâm đau khổ như thế nào; nếu chúng ta đã từ bỏ được tham ái, nguyên nhân của đau khổ; nếu chúng ta nhận ra sự chấm dứt của đau khổ; và nếu chúng ta đã phát triển được tám chi của Đạo, thì chắc chắn chúng ta đã biết Tứ Diệu Đế. Khi Thiên Nữ Uposathā nói rằng nàng biết các Thánh Đế, ý nàng muốn nói là nàng đã nhìn thấy con đường minh sát và Thánh Đạo bằng kinh nghiệm của chính mình. Nói cách khác, nàng là Bậc Thánh Nhập Lưu.

Một khi chúng ta biết được Tứ Đế, chúng ta cũng biết các Pháp cao quý. Sư sẽ đưa ra trình dẫn từ Kinh.

” …Vị thánh đệ tử được khéo léo chỉ dạy, vị ấy thấy được các Bậc Thánh, vị thiện xảo trong Thánh Pháp”2M.i.11; 136; 310..

Nếu chúng ta không phải là Bậc Thánh, bằng chánh trí tuệ, chúng ta sẽ không biết được Bậc Thánh là hạng người như thế nào? Những người chưa bao giờ được xuất gia trong Tăng Đoàn, họ sẽ không biết được từ kinh nghiệm cá nhân rằng một vị tỳ khưu phải cư xử và sống như thế nào. Chỉ khi nào chúng ta là Bậc Thánh, chúng ta mới phân biệt được ai là Thánh Nhân.

Theo Chú Giải, các pháp cao quý hay Thánh Pháp bao gồm: tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi, và bát chánh đạo – 37 pháp trợ đạo (bodhipakkhiya-dhammā).

Nếu chúng ta biết bất kỳ một trong bảy điều này, chúng ta cũng sẽ biết sáu điều còn lại. Sư đã nói rằng nếu các thiền sinh biết tứ đế thì các thiền sinh cũng biết Thánh Pháp, bởi vì bát chánh đạo nằm trong Tứ đế, là một nhóm của Thánh Pháp.

Khi chúng ta tinh tấn phát triển bất kỳ nhóm Thánh Pháp nào trong bảy nhóm Thánh Pháp, chẳng hạn như: Tứ niệm xứ, chúng ta sẽ hiểu chúng từ kinh nghiệm cá nhân. Đây là sự hiểu biết thực sự – sự hiểu biết từ nghe lại sẽ không có hiệu quả.

Một vị tỳ khưu khi đang đi, vị ấy biết: “tôi đang đi”. Cũng vậy, nếu chúng ta muốn trở thành Bậc Thánh Nhân, hãy ghi nhận “đi, đi” hay “dở, bước, đạp” trong khi đi. Khi chúng ta bước đi, chánh niệm sẽ sanh khởi khi chúng ta ghi nhận, trí nhận biết đối tượng cũng được ghi nhận. Khi nhận biết có ý muốn bước đi, đối tượng chân bước đi và ý muốn bước đi, chúng ta sẽ thấy chúng có sự sanh diệt như thế nào? Chánh niệm và sự hiểu biết này khởi lên bất cứ khi nào chúng ta ghi nhận, đây là nền tảng của thân niệm xứ hay quán thân trên thân.

“Chúng ta nhận thức được: ‘tôi cảm thấy đau’”. Thiền sinh ghi nhận “nóng, nóng” hay “đau, đau” bất cứ khi nào cảm giác nóng hoặc đau sanh khởi. Nhờ đó,thiền sinh có chánh niệm và biết được các cảm thọ sanh diệt như thế nào. Đây là nền tảng của thọ niệm xứ hay quán thọ trên các thọ.

“Người có tham dục biết rõ ‘tham dục đang sanh khởi trong ta”. Thiền sinh ghi nhận “ham muốn, ham muốn”, “vui vẻ, vui vẻ”, … và có chánh niệm. Thiền sinh sẽ biết được các khuynh hướng của tham dục sanh diệt như thế nào? Đây là nền tảng của tâm niệm xứ hay quán tâm trên tâm.

Những người trong số các thiền sinh đang được huấn luyện ở đây là đang tự học hỏi từ kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta trở nên thiện xảo trong Thánh Pháp – bốn nền tảng của chánh niệm. Đồng thời, chúng ta cũng đang thực hành chánh tinh tấn. Khi chúng ta ghi nhận, chúng ta đang nỗ lực loại bỏ những trạng thái bất thiện đã phát sanh, hoặc ngăn chặn sự phát sanh của những trạng thái bất thiện chưa phát sanh. Chúng ta đang cố gắng phát triển những thiện nghiệp trong minh sát và Đạo Lộ chưa xuất hiện, hoặc phát triển minh sát tuệ đã sanh khởi. Tứ như ý túc cũng có liên quan. Khi hành thiền, chúng ta phải dựa vào dục (có ý chí muốn hành thiền), nỗ lực hay tinh tấn, tư duy và trí tuệ. Ngũ căn: tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Ngũ lực: tín lực, tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Thất giác chi: niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tấn giác chi, hỷ giác chi, an giác chi, định giác chi, xả giác chi, những yếu tố này cũng sẽ sanh khởi trong lúc chúng ta ghi nhận đối tượng. Tám chi phần của Đạo thì không cần phải nhắc lại ở đây.

Trở lại câu chuyện của Thiên Nữ Uposathā. Nàng nói rằng:

“Kính Bạch Ngài, con đã gìn giữ ngũ giới. Con là một đệ tử cư sĩ của Đức Phật Gotama. Con thường nghe nói về Nandana và con muốn đến đó. Kết quả là con tái sanh ở Nandana này”.

Nandana là tên của một khu vườn trên cõi trời. Vào thời đó, người ta nói về Nandana cũng như nói về Châu Mỹ hay Châu Âu ngày nay. Uposathā nghe người ta nói về khu vườn địa đàng và mong muốn tái sanh ở đó nên đã có mong ước như vậy. Tuy nhiên, Thiên Nữ ấy không hài lòng. Thiên nữ ấy nói Ngài Đại Trưởng Lão Moggallāna:

“Kính Bạch Ngài, con đã không nghe theo lời dạy của Đức Phật. Con đã hướng tâm về cõi thấp hèn này, bay giờ con cảm thấy hối hận”.

Đức Phật dạy chúng ta rằng mọi hiện hữu trên đời đều không đáng hài lòng – chúng chỉ là những đau khổ. Ngài dạy chúng ta nỗ lực chấm dứt khổ đau, nhưng Uposathā đã không xem trọng lời khuyên của Đức Phật và mong muốn được sống trên cõi trời. Và giờ đây nàng đã nhận ra sai lầm của chính mình.

Các thiền sinh có thể hỏi:

“Tại sao chúng ta không tinh tấn chấm dứt khổ đau trên cõi trời luôn?”

Làm việc đó trên cõi trời không hề dễ. Thiên chúng luôn ca hát, nhảy múa và vui chơi. Không có một nơi nào yên tĩnh như ở cõi người. Ngay cả trong cõi người này,khi rời tường thiền trở về nhà, các thiền sinh cũng không thể nào hành thiền tốt đẹp được phải không? Vì vậy, ngay từ bây giờ hãy nỗ lực.

Ngài Đại Đức Moggallānan ủi vị thiên nữ:

“Đừng lo lắng, thiên nữ Uposathā. Đấng Toàn Giác đã tuyên bố rằng nàng đã là Bậc Thánh Nhập Lưu với những thành tựu đặc biệt. Nàng sẽ không bị rơi vào đoạ xứ”.

Thiên nữ Uposathā vẫn còn ở Tāvatiṃsa và chỉ vừa mới ở đó không bao lâu tính theo thời gian trên cõi trời. Một thế kỷ ở đây bằng một ngày trên cõi ấy. Từ thời Đức Phật cho đến nay là 2.500 năm, tức là chỉ có 25 ngày theo lịch ở cõi trời Tāvatiṃsa. Thiên nữ ấy thậm chí còn chưa đủ một tháng tuổi. Nếu chúng ta đạt được tuệ giác đặc biệt ngay lúc này, trong 40, 50 hay 60 năm nữa, chúng ta sẽ tái sanh vào cõi trời, gặp vị thiên nữ này và đàm luận Pháp với nàng ấy. Nếu chúng ta chưa có được trí tuệ đặc biệt, đừng nản lòng. Ít nhất chúng ta cũng được tái sanh vào cõi trời. Rồi chúng ta có thể hỏi các vị Chư Thiên là các Bậc Thánh, hãy lắng nghe lời dạy của các vị ấy và thực hành những gì họ dạy. Khi đó, chúng ta cũng sẽ sớm chứng đắc đạo quả. Thân chư thiên rất vi tế. Tâm khởi sanh tuỳ thuộc vào thân vi tế, nên tâm rất nhanh và nhạy bén. Vì vậy, nếu chúng ta nhớ lại cách mà mình đã hành thiền trong kiếp người, chúng ta sẽ hiểu được tánh sanh diệt của thân tâm, và đắc được đạo quả một cách mau lẹ.

“Những bài Pháp sanh khởi trong khi vị ấy an hưởng niềm vui trên cõi trời. Này các Tỳ Khưu, sự tưởng nhớ khởi lên chậm chạp, nhưng sau đó vị ấy nhanh chóng đạt được tuệ giác đặc biệt”3A.ii.185.

Một nữ nhân dòng Thích Ca (Sākyan) tên Gopikā là Bậc Thánh Nhập Lưu, sau khi thân hoại mạng chúng, sanh ra làm thiên nam Gopaka, con trai của Đức Vua Trời Sakka, ở Tāvatiṃsa. Khi nhìn thây ba Càn-thác-bà (gandhabba) đến trình diễn tại cũng điện của Vua Cha. Trong lúc suy ngẫm, thiên nam Gopaka nhớ ra đây là ba vị gandhabba trước kia là những vị Tỳ Khưu mà kiếp trước mình đã phục vụ, cúng dường. Rồi thiên tử Gopaka đã quở trách các vị ấy. Hai vị gandhabba nhớ lại giáo Pháp mà họ đã thực hành và đã thực hành thiền, ngay lập tức, các vị ấy đắc thiền và chứng đắc đạo quả Bất Lai và tái sanh vào cõi Phạm Thiên.

Có rất nhiều vị trời và thiên nữ như Uposathā hiện đang sống tại các cõi trời, họ đã thực hành Giáo Pháp trong thời Đức Phật. Có những vị thần như Gopaka được sanh ra từ thân nữ nhân. Tất cả những vị ấy đều thực hành Pháp giống như chúng ta đang làm. Đây là điều rất đáng khích lệ. Đây là con đường cổ xưa mà các Bậc Thánh Nhân đã đi qua. Mỗi một lần ghi nhận là chúng ta đang đi dọc theo con đường này. Như một người du hành đi gần tới đích với mỗi bước chân, chúng ta cũng đến gần Niết-bàn với mỗi lần ghi nhận.

Nếu muốn chứng đắc được Đạo Quả trong 10.000 lần tâm ghi nhận trên các đối tượng, và nếu bây giờ chúng ta đã thực hiện được 1.000 lần thì chúng ta chỉ còn 9.000 lần nữa để chứng đắc Đạo Quả. Nếu chúng ta có 9.000, 900, 99 lần tâm ghi nhận thì bước tiếp theo sẽ là tiến trình Đạo Lộ. Chúng ta càng chú tâm ghi nhận, chúng ta càng đến gần Đạo Lộ.

Cầu chúc cho các thiền sinh có thể ghi nhận năm uẩn dính mắc bất cứ khi nào chúng sanh khởi nơi sáu căn. Cầu mong cho các thiền sinh nhận ra bản chất của vô thường, khổ và vô ngã của các đối tượng. Cầu mong các thiền sinh tiến bộ trong Tuệ Giác và thấy được Niết-bàn, chấm dứt mọi sự đau khổ.


Ghi Chú:

  • 1
    D.ii.255.
  • 2
    M.i.11; 136; 310.
  • 3
    A.ii.185