Những Câu Hỏi Của Đức Vua Trời Sakka
Pháp thoại
Mahāsi Sayādaw
Dịch Việt
Dhannapālaka
Mục đích của thiền minh sát là ghi nhận tất cả các hiện tượng tâm sanh khởi từ sự tiếp xúc với các đối tượng của giác quan. Thiền minh sát bao gồm cả sự tinh tấn ghi nhận, trải nghiệm tất cả các hiện tượng đúng theo bản chất của chúng, cùng với các đặc tánh vô thường, khổ, vô ngã, … của các hiện tượng ấy. Lúc đầu, hành giả không thể tập trung vào tất cả những tiến trình của thân và tâm, vì vậy hành giả nên bắt đầu từng giai đoạn rõ ràng. Khi hành giả đi, hành giả nên ghi nhận ‘bước’, … Bằng cách quan sát mọi hành động của cơ thể, hành giả sẽ nhận thức được các yếu tố chuyển động và các yếu tố cơ bản khác. Điều này phù hợp với lời dạy trong bài Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna Sutta):
“Khi đi vị ấy [hành giả] biết, ‘Tôi đang đi’
(Gacchanto vā gacchāmi’ti pajānāti).”
Hành giả có xu hướng mất tập trung trong một tư thế duy nhất, ví dụ như tư thế ngồi. Do đó, để giữ được sự tỉnh táo, hành giả nên tập trung vào sự phồng và xẹp của bụng. Với sự phát triển của định, hành giả sẽ nhận biết được sự chuyển động, tức là yếu tố gió/phong đại (vāyo) trong khi tập trung ghi nhận sự phồng xẹp. Sau này sự phân biệt trở nên rõ ràng hơn giữa quá trình phồng và tâm ghi nhận; giữa xẹp và tâm ghi nhận; giữa dở chân lên và tâm ghi nhận; giữa bước chân về phía trước và tâm ghi nhận.
Đây gọi là tuệ phân biệt danh sắc (nāmarūpapariccheda-ñāṇa).
Với sự phát triển của định, hành giả biết rằng mình co tay lại vì ý muốn co tay lại, biết rằng mình thấy được vì mình có mắt và có đối tượng để thấy, biết rằng nhờ có đối tượng nên mới có sự biết, biết rằng mình không biết bởi do thiếu chánh niệm, biết rằng mình thích một thứ gì đó bởi do vô minh, biết rằng quả tốt hay xấu đều do hành động của chính mình, v.v…
Đây là tuệ phân biệt nhân duyên (paccayapariggaha-ñāṇa), hay tuệ giác về tính ưu việt của luật nhân quả.
Tiếp theo là tuệ hiểu biết (sammasana-ñāṇa), nghĩa là tuệ giác thấy được ba đặc tánh của mọi hiện tượng (vô thường, khổ, vô ngã) — tuệ giác này sanh ra từ sự quán chiếu, ghi nhận về sự sanh và diệt của các hiện tượng. Tuệ này còn được gọi là tuệ thẩm sát tam tướng.
Bấy giờ hành giả biết rằng mọi thứ sanh và diệt nhanh chóng. Tâm của hành giả nhạy bén đến mức không có gì thoát ra khỏi sự ghi nhận của vị ấy. Hành giả có xu hướng nhìn thấy ánh sáng, cảm thấy phấn khởi và hỷ lạc quá mức. Cảm giác dễ chịu (thọ lạc) này phát sanh cùng với tuệ sanh diệt (udayabbaya-ñāṇa). Cảm giác này vượt qua hết thảy các cảm giác hỷ lạc và nó được diễn tả như là một trạng thái của tâm mà chúng ta nên đón nhận. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) có nói đến một trạng thái hỷ lạc thù thắng phát sanh nơi hành giả trong khi ghi nhận, quán chiếu Pháp (Dhamma) một cách đúng đắn, tức là tánh chất vô thường của danh và sắc. Trạng thái tâm đó gọi là Bất tử (amata), bởi vì nó là tiền thân của Niết-bàn (nibbāna), và hành giả chắc chắn sẽ chứng ngộ nếu hành giả nỗ lực bằng đức tin, quyết tâm và tinh tấn.
Khinh hỷ và hỷ được gọi là pamojja và pīti trong tiếng Pāḷi. Pamojja nghĩa là khinh hỷ, trạng thái này sanh khởi cùng với sự xuất hiện của tuệ thấy rõ các đặc tánh vô thường, khổ, và vô ngã của mọi hiện tượng—tuệ hiểu biết hay tuệ thẩm sát tam tướng (sammasana-ñāṇa). Pīti nghĩa là hỷ thù thắng đi chung với tuệ sanh diệt (udayabbaya-ñāṇa). Cảm giác này phát triển trong khi hành giả chánh niệm về sự phồng và xẹp của bụng, hay những cảm giác nơi thân, hoặc khi sự ghi nhận tập trung vào những chuyển động của thân. Hành giả hiếm khi có cảm giác đau đến mức không thể chịu nổi. Nếu có cơn đau thỉnh thoảng xuất hiện, trong khi ghi nhận cơn đau đó, nó sẽ biến mất ngay lập tức. Chừng nào hành giả còn chánh niệm về tốc độ mau lẹ mà mỗi hiện tượng sanh ra và rồi diệt đi, thì hành giả sẽ cảm thấy vô cùng phấn chấn, và niềm phấn khởi này vẫn tiếp tục mãnh liệt.
Cũng như ba tầng thiền (jhāna) đầu tiên, hành giả sẽ cảm thấy rất an lạc khi chứng được tuệ sanh diệt. Ở giai đoạn này, hành giả diễn tả hỷ lạc này như một trải nghiệm khó có thể nói thành lời, bởi vì hỷ lạc đó thù thắng hơn tất cả các trạng thái tâm hỷ lạc tương tợ.
Trong DN21. Kinh Đế Thích Sở Vấn (Sakkapañha Sutta), hỷ lạc đó được gọi là Sevitabbasomanassa, nghĩa là hỷ lạc mà chúng ta nên tầm cầu (cảm giác dễ chịu mà chúng ta nên tìm kiếm).