WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Đồng Tính Và Xuất Gia Dưới Góc Nhìn Phật Giáo

Lời Tựa

Bài viết đã được tôi trình bày lại, có thêm ghi chú vào trong các đoạn trích, lược bỏ những phần bị trùng lặp. Tuy bài viết gốc để vị Thuyết Giảng là Tỳ Khưu Pháp Quang, nhưng tôi không tận mắt nhìn thấy hay tận tai nghe Sư thuyết. Xét thấy, đây là một bài giảng khá nhạy cảm thuộc về tà pháp (các pháp sai trái, không được tán thán), nhưng có lẽ chủ đề này được nhiều người thắc mắc nên Sư đã có lời phân tích, chia sẻ có đối chiếu Kinh Luật rõ ràng cho người hỏi; đồng thời, nêu ra một góc nhìn toàn diện, đầy lòng bi mẫn đến các chúng sanh mà không sự phân biệt Giới Tánh. Mong rằng bài Pháp này sẽ giúp các Thiện Tín không thối lui trong thiện pháp, có lòng tin nơi Giáo Pháp, gội rửa các bất thiện Pháp và tà Pháp nơi tâm để đi tới nơi Bất Tử theo mỗi hạnh nguyện của mình bằng tứ chánh cần (bốn pháp tinh tấn):

Ác vị sanh, sử bất sanh;
Ác dĩ sanh, sử trừ đoạn;
Thiện vị sanh, sử phát sanh;
Thiện dĩ sanh, sử tăng trưởng.

Tức là:

– Tinh tấn ngăn trừ bất thiện pháp chưa sanh.

– Tinh tấn diệt trừ bất thiện pháp đang sanh.

– Tinh tấn phát khởi thiện pháp chưa sanh.

– Tinh tấn tăng trưởng thiện pháp đã sanh.

Dhanapālaka
Mong Thay! Sadhu!

Phần 1

Tính dục hay khuynh hướng tình dục là bản năng tự nhiên trong mỗi con người bất kể giai cấp, địa vị, giới tính, cao thượng hay hạ liệt – Đây là một trong những yếu tố tự nhiên trong cõi người hay nói rộng hơn là trong cõi dục giới. Các chư thiên trong cõi trời dục giới vẫn có những hành động hành dâm giống như trong cõi người vậy1Tham khảo thêm trong Chi Tiết Về Chư thiên Và Các Cõi Trời.

Đối với phàm nhân thì việc hành dâm diễn ra là một điều hết sức bình thường. Đối với Bậc Nhập Lưu (bậc thánh nhân đầu tiên) việc hành dâm vẫn còn diễn ra. Điển hình là ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, … là hai vị đại thí chủ trong thời Đức Thế Tôn. Họ vẫn có con cháu như bao người trong thế gian, nhưng xét về trí tuệ giải thoát thì các vị ấy không còn bị đoạ xuống khổ cảnh bởi vì họ đã đoạn diệt trừ ba kiết sử (ba trói buột) đầu tiên là Thân kiến (Thân này là của ta), Nghi (Hoài nghi về Phật Pháp Tăng) và Giới cấm thủ (Hành theo những điều không mang tới lợi ích).

Hành dâm trong khuôn khổ đạo đức của người tại gia vẫn được xem là chánh đáng vì đó là hành động duy tồn nòi giống và nằm trong chuẩn mực mà xã hội quy định, chấp nhận. Một khi hành động này trở nên mất kiểm soát và vượt quá giới hạn, thì hành động này bị khiển trách, và nó được xem là một sự tà hành trong các dục hay còn gọi là tà dâm (Kāmesu micchācāra). Vì vậy, điều học cố ý tránh xa sự tà dâm được Đức Phật chế định vào một trong năm giới luật căn bản (ngũ giới) của người cư sĩ tại gia.

Vấn đề đang nói đến phía trên là đang đề cập tới sự hành dâm giữa hai người dị tính (tức là giữa người nam với người nữ). Trong xã hội ngày nay, thì khuynh hướng hành dâm không chỉ nằm trong chuẩn mực dị tính mà còn có thêm một khuynh hướng khác là đồng tính (homosexual).

Loại giới tính này, trong kinh tạng Pāḷi đã có nhắc tới và tồn tại từ rất lâu, từ lúc tuổi thọ con người bị suy giảm còn 500 năm. Đây là quả của các nhân bất thiện mà con người đã tạo từ trước đó. Do xu hướng này có tính không tuỳ thuận theo tự nhiên, tách biệt với tự nhiên nên được gọi là Tà Pháp (micchādhamma).

“Này các Tỷ kheo, khi tuổi thọ loài Người chỉ có 500 năm, thì ba pháp tăng thịnh: phi pháp dục, phi lý tham và tà pháp”. [DN26]
Pañcavassasatāyukesu, bhikkhave, manussesu tayo dhammā vepullamagamaṁsu—adhammarāgo visamalobho micchādhammo.

Chú giải Trường Bộ Kinh, Sumaṅgalavilāsinī (III. P 172) giải thích về micchādhamma như một sự ham muốn giữa người nam với người nam, giữa người nữ với người nữ.

Căn nguyên của nó, theo Đức Thế Tôn, chính do nghiệp tà kiến:

“vì tà kiến tăng thịnh nên ba pháp tăng thịnh: phi pháp dục, phi lý tham và tà pháp”. [DN26]
Micchādiṭṭhiyā vepullaṁ gatāya tayo dhammā vepullamagamaṁsu, adhammarāgo visamalobho micchādhammo.

Vào thời Đức Thế Tôn còn tại thế, khuynh hướng hành dâm đồng giới của vị tỳ khưu dường như không xa lạ. Ở chừng mực giới hạn nào đó, Đức Thế Tôn vẫn chế định giới luật để răn đe, chẳng hạn, nếu vị tỳ khưu do bức bách mà tự mình thực hiện hành động bằng tay hoặc bằng thân trên thân hoặc nam căn của một người nam thì vị ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa).

Vào lúc nọ, có vị Tỳ khưu cầm lấy ngọc hành của một vị Sa-di đang ngủ, và làm vị Tỳ khưu ấy xuất tinh. Vị ấy khởi lên hoài nghi … “Này Tỳ khưu, ngươi không phạm tội tăng tàn (saṅghādisesa), nhưng phạm tội tác ác (dukkaṭa).” [Bu Ss 1]
Tena kho pana samayena aññataro bhikkhu suttassa sāmaṇerassa aṅgajātaṁ aggahesi. Tasseva asuci mucci. Tassa kukkuccaṁ ahosi …pe… “anāpatti, bhikkhu, saṅghādisesassa; āpatti dukkaṭassā”ti.

Với những trường hợp như vậy, Đức Thế Tôn chế định giới:

“Là nam nhân, vị ấy biết là nam nhân, và vị ấy khởi lên ái dục. Nếu vị Tỳ khưu đụng chạm thân thể với nam nhân, thân đụng chạm thân, nếu vị ấy đụng chạm, …(như trên)… nắm chặt, chạm vào thân thể nam nhân ấy thì vị Tỳ khưu ấy phạm tội tác ác (dukkaṭa).”
“Puriso ca hoti purisasaññī sāratto ca. Bhikkhu ca naṁ purisassa kāyena kāyaṁ āmasati parāmasati …pe… gaṇhāti chupati, āpatti dukkaṭassa”. [Bu Ss 2]

Vào lúc nọ, có vị Tỳ khưu, nhằm mục đích xuất tinh, nói với vị Sa-di: “Này Sa-di, hãy cầm lấy ngọc hành của ta.” Vị Sa-di đã cầm lấy ngọc hành vị ấy, và làm vị Tỳ khưu xuất tinh. Vị ấy khởi lên hoài nghi … “Này Tỳ khưu, ngươi phạm tội tăng tàn (saṅghādisesa).” [Bu Ss 1]
Tena kho pana samayena aññataro bhikkhu mocanādhippāyo aññataraṁ sāmaṇeraṁ etadavoca— “ehi me tvaṁ, āvuso sāmaṇera, aṅgajātaṁ gaṇhāhī”ti. So tassa aṅgajātaṁ aggahesi. Tasseva asuci mucci. Tassa kukkuccaṁ ahosi …pe… “āpattiṁ tvaṁ, bhikkhu, āpanno saṅghādisesan”ti.

Và rất nhiều trường hợp đề cập trong Bu Ss 1 Điều Học Cố Ý Làm Cho Xuất Tinh.

Trong các trường hợp trên, tội nặng nhất là Tăng Tàn (Saṅghādisesa), dầu vậy, nếu vị ấy có sự sám hối và thi hành hình phạt theo luật, có sự làm chứng của Tăng Chúng, thì sau khi hoàn tất hình phạt, vị ấy được phục hồi phẩm vị và vẫn được xem là vị tỳ khưu thanh tịnh.

Còn nếu vị tỳ khưu đi quá xa Phạm hạnh, bằng hành vi quan hệ tình dục qua đường miệng hay đường hậu môn của một người nam thì vị ấy phạm tội Bất cộng trụ (Pārājika).

“Một vị Tỳ khưu cưỡng đoạt một vị Tỳ khưu đang ngủ:
Bhikkhu suttabhikkhumhi vippaṭipajjati;

Nếu vị ấy thức giấc và ưng thuận, cả hai sẽ bị trục xuất;
paṭibuddho sādiyati, ubho nāsetabbā.

Nếu vị ấy thức giấc và không ưng thuận, kẻ phạm tội sẽ bị trục xuất;
Paṭibuddho na sādiyati, dūsako nāsetabbo.”

Những trường hợp như vậy được nhắc tới rất nhiều trong phần biến đổi thứ hai của Bu Ss 1.

Pārājika là trọng tội không thể chữa được, không thể hồi phục được. Vị vi phạm sẽ mất đi phạm hạnh hoàn toàn và phải bị trục xuất khỏi Tăng Đoàn (bất cộng trụ).

Như vậy, với những trường hợp trên, không thể phủ nhận sự hiện hữu những vấn đề đồng tính trong thời Đức Thế Tôn.

Đối với Đức Thế Tôn, Ngài không có sự phân biệt hay kỳ thị giới tính, miễn là không vượt quá giới hạn của Phạm Hạnh, dù là người dị tính hay đồng tính, vẫn được Đức Thế Tôn chấp nhận trong Tăng Chúng. Tuy nhiên, có những người mang giới tính quá “đặc biệt” mà Đức Thế Tôn không chấp nhận trong Tăng Chúng, đó là hạng Paṇḍaka (tạm dịch là người vô căn hay người bị thiến) và Ubhatobyañjanaka (người lưỡng căn có cả hai bộ phận sinh dục nam và nữ).

Nguyên nhân là vì hai hạng người này bị dục vọng lấn át nên thường có hành vi dâm ô mất kiểm soát, làm sách nhiễu đến các vị tỳ khưu và khiến cho Tăng Chúng và người đời chê trách. Vì thế, Đức Thế Tôn chế định giới cấm:

“Này các tỳ khưu, người vô căn chưa được thọ cụ túc giới thì không nên cho thọ cụ túc giới, nếu đã thọ cụ túc giới rồi thì nên trục xuất”.

“Này các tỳ khưu, người lưỡng căn chưa được thọ cụ túc giới thì không nên cho thọ cụ túc giới, nếu đã thọ cụ túc giới rồi thì nên trục xuất”2Trọng yếu; Đại Phẩm; Tạng Luật..

Riêng đối với hạng paṇḍaka, Chú giải Tạng Luật, Sāmantapāsādikā, có giải thích mở rộng thành năm hạng người:

1. Āsitta-paṇḍaka (người khuyết tính khát dâm) : Người đạt đến sự thỏa mãn từ việc dùng miệng ngậm nam căn của người nam khác và sau đó tiếp lấy tinh dịch qua miệng hoặc thân.

2. Usūya-paṇḍaka (người khuyết tính ghen dâm): Người ưa rình xem sự quan hệ của đôi nam nữ (thị dâm), bị kích thích bởi sự ghen tị ân ái, rồi sau đó được thoả mãn.

3. Opakkamika-paṇḍaka (người khuyết tính khuyết căn): Người bị thiến.

4. Pakkha-paṇḍaka (người khuyết tính bán nguyệt): Người bị khởi dục bức bách trong suốt nửa tháng không trăng và được lắng dịu trong suốt nửa tháng có trăng, hoặc ngược lại.

5. Napuṃsaka-paṇḍaka (người khuyết tính vô căn): Người bẩm sinh đã không có bộ phận sinh dục rõ ràng, dù là nam hay nữ, chỉ có đường tiết niệu.

Ở đây, có một số quan điểm cho rằng, từ “Paṇḍaka” là một “Thuật ngữ được dùng để gọi chung năm hạng người biến thái không được thọ đại giới. Nếu cưỡng cầu, giới phẩm cũng không thành tựu.” (Từ Điển Thuật Ngữ Luật Tạng; Tỳ-kheo Giác Nguyên dịch).

Quan điểm này không đầy đủ và không chính xác. Trong số năm hạng này, hạng nào bị Đức Thế Tôn ngăn cấm và không chấp nhận trong Tăng Chúng?

Trong Tạng Luật, “Paṇḍaka” thường chỉ được hiểu là người bị thiến hay người vô căn (không có bộ phận sinh dục nam; không có giới tính rõ ràng; napuṃsakā). Chính do yếu tố này khiến tâm sinh lý của hạng người này không bình thường, có dâm tính mất kiểm soát, nên đã sách nhiễu đến Chư Tăng và bị Đức Thế Tôn tuyên bố trục xuất. Và việc Đức Thế Tôn tuyên bố trục xuất người paṇḍaka trong Tạng Luật ám chỉ cho hạng người này. Về sau, Các Chú giải, Sớ giải, cũng đã xác nhận và làm rõ điều này. Chú giải Tạng Luật, Mahāvagga Aṭṭhakathā, giải thích :

“Paṇḍaka” có nghĩa là đầy rẫy phiền não, với ham muốn vô độ, không có giới tính (napuṃsaka)
Người bị dục vọng lấn át hoàn toàn, bất kể với ai mà họ muốn làm bạn cùng”3VinA 5.991.
“Paṇḍakāti ussannakilesā avūpasantapariḷāhā napuṃsakā; te pariḷāhavegābhibhūtā yena kenaci saddhiṃ mittabhāvaṃ patthenti”.

“Paṇḍakas là những người dính rất chặt vào dục lạc thế gian, đầy rẫy những phiền não, với sự thiêu đốt của ham muốn và không có giới tính (napuṃsaka)4Saddhammappajjotikāya 2.541.
“Paṇḍakāti lokāmisa nissitakathā bahulā ussanna kilesā avūpasanta pariḷāhā na puṃsakā”.

Sớ giải (ṭīkā) Tạng Luật, Paṭhamapārājikavaṇṇanā giải thích thêm:

“Trong số này, nên để qua một bên người khuyết tính khát dâm và khuyết tính ghen dâm, những gì được nói đến ở đây là người khuyết tính khuyết căn, khuyết tính vô căn, và hạng khuyết tính bán nguyệt.”
“Tesu āsittapaṇḍakañca usūyapaṇḍakañca ṭhapetvā opakkamikapaṇḍako napuṃsakapaṇḍako paṇḍakabhāvapakkhe ṭhito pakkhapaṇḍako ca idha adhippeto.”

Chú giải Tạng Luật, Samantapāsādikā, giải thích:

“Trong số này, người khuyết tính khát dâm và người khuyết tính ghen dâm với sự xuất gia tu lên bậc trên không bị ngăn cấm. Người khuyết tính khuyết căn, khuyết tính vô căn, và khuyết tính bán nguyệt bị ngăn cấm.”5Vatthusampattikathā; Upasampadākaṇḍo.

“Etesu āsittapaṇḍakassa ca ussūyapaṇḍakassa ca pabbajjā na vāritā.
Opakkamikanapuṃsakapakkhapaṇḍakānaṃ pana vāritā.”

Ngày nay, người khuyết tính khát dâm (āsitta-paṇḍaka) được biết đến như một loại người đồng tính nam (Gay). Dù vậy, nếu họ có chí nguyện mạnh mẽ sống đời Phạm hạnh trong Giáo Pháp Đức Thế Tôn, họ vẫn được chấp nhận gia nhập Tăng Đoàn một cách hợp pháp, cũng như, bình đẳng phẩm vị. Điều này là vì con đường xuất gia là con đường chung của tất cả những ai có cùng chung đức tin, trí tuệ, và giới hạnh; chung 1 mục đích : sự đoạn diệt phiền não cũng như tất cả các loại tính dục.

Phần 2

Khuynh hướng người dị tính, Đức Thế Tôn dạy rằng:

Ta không thấy một sắc nào khác, này các Tỷ-kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông như sắc người đàn bà.
“Nāhaṁ, bhikkhave, aññaṁ ekarūpampi samanupassāmi yaṁ evaṁ purisassa cittaṁ pariyādāya tiṭṭhati yathayidaṁ, bhikkhave, itthirūpaṁ.

Này các Tỷ-kheo, sắc người đàn bà xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn ông.
Itthirūpaṁ, bhikkhave, purisassa cittaṁ pariyādāya tiṭṭhatī”ti.

(Xem chi tiết phần này trong Phẩm Sắc).

Theo lời thuyết giảng trên, người “dị tính” là những người bị hấp dẫn bởi năm đối tượng giác quan của người khác giới. Như vậy, nếu trái ngược với khuynh hướng trên thì người ấy là người đồng tính, tức la họ bị hấp dẫn bởi năm đối tượng giác quan của người đồng giới.

Vậy liệu có ai trong hàng đệ tử Đức Thế Tôn theo khuynh hướng đồng giới không?

1. Câu chuyện về Đại Đức Vakkali

Vào thời Đức Thế Tôn, Đại Đức Vakkali sanh ra trong một gia đình Bà-la-môn ở Sāvatthi, Ngài thông thuộc ba tập Vệ-đề cũng như các nghi lễ Ba-la-môn. Trong một lần nhìn thấy Đức Thế Tôn đi vào thành khất thực, Đại Đức Vakkali không thể rời mắt khỏi Đức Thế Tôn và Ngài ấy cứ lẽo đẽo theo sau chỉ để ngắm nhìn Đức Thế Tôn. Để được nhìn ngắm Đức Thế Tôn mỗi ngày, vị ấy quyết định đi xuất gia. Ngày nào cũng vậy, trừ lúc thọ thực, đi đại tiểu tiện, và đi ngủ, thì thời gian còn lại Đại Đức chỉ biết ngắm nhìn Đức Thế Tôn. Cho đến một ngày, Đức Thế Tôn gọi Đại Đức Vakkali đến và nói rằng:

“Này Vakkali, có gì đáng thấy ở nơi thân thể hôi hám này? Người nào thấy Pháp, người ấy thấy ta”6Cp. Itv. sec. 92.
“yo kho dhammam passāti so mam passāti ; yo mam passāti so dhammam passāti”.

Dù vậy, Đại Đức Vakkali cũng không thể từ bỏ và rời khỏi Đức Thế Tôn. Cho đến cuối mùa kiết an, để cảnh tỉnh Đại Đức Vakkali, Đức Thế Tôn nói rằng:

“Này Vakkali! Ông nên rời đi!”

Nghĩ rằng Đức Thế Tôn muốn đuổi mình đi, Đại Đức Vakkali đau khổ, buồn đến mức muốn gieo mình xuống vách núi Linh Thứu (Gijjhakūta) tự vẫn. Đức Thế Tôn biết được đây là thời thích hợp nên dùng thần thông hiện đến trước mặt Đại Đức Vakkali và thuyết lên bài kệ:

“Tỷ-kheo nhiều hân hoan,
Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh,
Các hạnh an tịnh lạc”. Dhp 381

Sau đó, Đức Thế Tôn đưa bàn tay và nói:

“Hãy lại đây, này tỳ khưu”.

Chính lòng bi mẫn này của Đức Thế Tôn đã cứu được Đại Đức Vakkali và giúp vị ấy chứng ngộ giải thoát về sau.

Theo chú giải Theragāthā7ThagA.i.420, khi Đại Đức Vakkali bị Đức Thế Tôn đuổi đi, ông sống trên núi Gijjhakūta, Ngài hành thiền nhưng không thể chứng đắc được gì do những xúc động của mình.

Về sau, Đức Thế Tôn cho Ngài đề mục thiền nhưng Ngài cũng không chứng đắc được gì, một phần do hoàn cảnh thiếu thốn vật thực, và Ngài thường bị chuột rút.

Có giải thích cho rằng, sự “say đắm” của Đại Đức Vakkali đối Đức Thế Tôn là vì ông thuộc hạng người Rūpapamāṇikā, tức hạng người lượng xét theo sắc tướng mà phát sanh sự tịnh tín.

Đức Thế Tôn có nói về bốn hạng người:

“Hạng người đo lường sắc và thỏa mãn với sắc; hạng người đo lường tiếng và thỏa mãn với tiếng; hạng người đo lường với thô tháo và thỏa mãn với thô tháo; hạng người đo lường pháp và thỏa mãn với pháp”. [AN 4.65]
“Rūpappamāṇo rūpappasanno, ghosappamāṇo ghosappasanno, lūkhappamāṇo lūkhappasanno, dhammappamāṇo dhammappasanno.”

Theo các Chú Giải8A. II. 71; Pug.7, 53; DhA. 114; Sn.A.242 DhA iii.113 bốn hạng người với bốn phương diện lượng xét được phân loại như sau:

1. Lượng xét theo sắc tướng (Rūpapamāṇikā), là thấy hình dáng bên ngoài của người khác mà khởi tâm tịnh tín. Như có người nhìn thấy tướng hảo của Đức Thế Tôn rồi phát sanh đức tin.

2. Lượng xét theo tiếng nói (Ghosapamāṇikā), là nghe tiếng nói âm điệu của người khác mà khởi tâm tịnh tín. Như có người nghe Phạm âm du dương của Đức Thế Tôn hoặc nghe tiếng đồn tốt đẹp về Ngài rồi phát sanh niềm tin.

3. Lượng xét theo vẻ khắc khổ (Lūkhapamāṇikā), là nghĩ đến sự từ bỏ xa hoa của người khác mà khởi tâm tịnh tín. Như có người nghĩ đến Đức Thế Tôn đã khước từ đời sống đế vương để sống khổ hạnh, mặc y phấn tảo, khất thực độ nhật… người ấy phát sanh niềm tin.

4. Lượng xét theo pháp (Dhammapamāṇikā), là hiểu được giáo pháp mà khởi tâm tịnh tín. Như có người đến nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, khi người ấy nhận hiểu đây là con đường thật sự dẫn đến an tịnh, hạnh phúc và giải thoát, liền phát sanh niềm tin9Trích Kho Tàng Pháp Học; Tỳ khưu Giác Giới..

Ở đây, nếu xét phương diện người do nhìn thấy hảo tướng của Đức Thế Tôn mà phát sanh tịnh tín, thì cần phải nói đến các Bà-la-môn Ambattha, Bà-la-môn Pokkharasādi. Chẳng hạn, trong Kinh Ambaṭṭha, ta có thể thấy hành vi và thái độ của họ đối với các hảo tướng của Đức Thế Tôn hoàn toàn khác biệt với Đại Đức Vakkali. Và đối với Đức Thế Tôn, Ngài còn chủ động “phơi bày” đầy đủ các hảo tướng bậc Đại Nhân của mình, dù đó là tướng Mã Âm Tàn ẩn kín.

Thế Tôn liền dùng thần thông khiến thanh niên Ambattha thấy tướng mã âm tàng của Thế Tôn. Và Thế Tôn le lưỡi, rờ đến, liếm đến hai lỗ tai, rờ đến, liếm đến hai lỗ mũi, và dùng lưỡi che khắp cả vầng trán.” [DN3]

Vì Đức Thế Tôn biết rằng, đối với những hạng người này, sắc tướng của Ngài có để giúp họ đạt được sự tịnh tín. Do tịnh tín, Bà-la-môn Pokkharasādi đã thỉnh Đức Thế Tôn trai tăng tại nhà, sau khi nghe pháp, ông đắc Quả.

Còn đối với Đại Đức Vakkali, Đức Thế Tôn lại có thái độ quở trách khi ông cứ tham luyến vào sắc tướng của Ngài:

“Có gì đáng thấy nơi thân thể hôi hám này?”
“kin te iminā pūtikāyena diṭṭhena?”

Câu nói này cũng được thấy trong Kinh Vakkali [SN 22.87], sau khi Đức Thế Tôn ghé thăm Đại Đức Vakkali lúc ông lâm trọng bệnh và hỏi Đại Đức liệu có gì phân vân, có gì hối hận không?

Đại Đức Vakkali bèn nói:

“Ðã từ lâu, bạch Thế Tôn, con muốn đến để được thấy Thế Tôn. Nhưng thân con không đủ sức mạnh để được đến thấy Thế Tôn”.

Ngay lập tức, Đức Thế Tôn quở trách và nhắc nhở:

Thôi đủ rồi Vakkali, có gì đáng thấy đối với cái thân hôi hám này?
“kin te iminā pūtikāyena diṭṭhena”.

“Này Vakkali, ai thấy Pháp, người ấy thấy Ta. Ai thấy Ta, người ấy thấy Pháp. Này Vakkali, đang thấy Pháp, là đang thấy Ta. Ðang thấy Ta, đang là thấy Pháp.”

Sau đó, Đức Thế Tôn thuyết về sự Vô thường – Khổ – Vô ngã của Năm uẩn. Đại Đức Vakkali đã cố gắng thực hành cho sự chứng đắc A-la-hán.

Chú Giải của bài kinh này giải thích rằng, Đại Đức Vakkali đã tự phụ và mù quáng trước những lỗi lầm còn lại của mình bởi Ngài tưởng rằng mình đã thành Bậc Lậu Tận (khīnāsava), và rằng, Ngài có thể tự giải thoát (kết liễu) bản thân khỏi những thống khổ của thân xác do trọng bệnh.

Ngài đã đem đến con dao (tự sát), nhưng khi hành động, các khổ thọ nơi thân và tâm khởi lên mạnh mẽ khiến Ngài nhận ra rằng mình vẫn còn phàm (puthujjana). Trong giây phút hấp hối, Ngài đã nỗ lực hết mình thực hành minh sát, cuối cùng, chứng đắc A-la-hán.

Về sau, trước các tỳ khưu, Đức Thế Tôn tuyên bố:

“Trong các đệ tử Tỳ khưu có tín thắng giải (saddhādhimuttas), tối thắng là Vakkali”10Phẩm Người Tối Thắng..

Theo Chú giải Tăng Chi Bộ, sự thành tựu A-la-hán cũng như Tối Thắng Tín Thắng Giải của Đại Đức Vakkali là do sự phát nguyện của ông vào thời kì Đức Thế Tôn Padumuttara, khi thấy vị tỳ khưu (cùng tên Vakkali) được Đức Thế Tôn Padumuttara tuyên bố có tín thắng giải tối thắng11Ap.ii.465f.; AA.i.140.

Quay trở lại câu chuyện của Đại Đức Vakkali, nếu Ngài thuộc người Rūpapamāṇikā có thể đạt tịnh tín qua sắc tướng của Đức Thế Tôn, thì Đức Thế Tôn đã không quở trách như vậy.

Phải chăng Ngài biết rõ đó không phải là sự tịnh tín nơi sắc tướng mà chính là sự luyến ái?

Trong Kinh Sakka12Tương ưng sáu xứ; Kinh Sakka; S.iv, 101, Thiên chủ Đế Thích có bạch với Đức Thế Tôn như sau:

“Bạch Đức Thế Tôn, do nhân gì, duyên gì, ở đây một số hữu tình ngay trong hiện tại không viên tịch?”

Đức Thế Tôn dạy:

“Này Thiên chủ, có những sắc do mắt nhận thức, khả lạc, khả hỷ, khả ý, khả ái liên hệ đến dục, hấp dẫn”

“Nếu vị Tỳ khưu hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú”.

“Do vị ấy hoan hỷ sắc ấy, tán dương, tham luyến an trú, y cứ vào đấy, thức khơi lên, chấp thủ sắc ấy”.

“Vì có chấp thủ, này Thiên chủ, Tỳ khưu ấy không đắc viên tịch” .

Nói về sắc tướng của Đức Thế Tôn, Ngài từng là một vị Thái Tử khôi ngô xuất chúng. Lại nữa, từ khi được thọ ký để trở thành Phật Chánh Đẳng Giác, không có kiếp nào mà Đức Bồ Tát sanh làm người nữ, hay giống cái. Suốt 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp, Ngài đều sinh ra làm người Nam hoặc Thiên Nam hoặc có kiếp làm thú đực, nên có thể nói ngoại quan nam tính của Đức Thế Tôn là siêu phàm và tối thắng. Với 32 hảo tướng, 80 vẻ đẹp, sự thanh thoát, cao quý, cùng với ngoại quan nam tính ấy, thì đối với bất cứ một người nam có khuynh hướng đồng tính dù chỉ là trong suy nghĩ cũng sẽ khó thể cưỡng lại, và điển hình là Đại Đức Vakkali.

2. Câu chuyện về Đại Đức Soreyya

Theo Chú Giải Kinh Pháp Cú (Dhammapada Atthakatha), trong một lần cùng người bạn và đoàn tuỳ tùng đi ra bờ sông để tắm, tình cờ, Đại Đức Soreyya thấy trưởng lão Mahā-kaccayana đang đắp y để đi chuẩn bị đi vào thành khất thực. Thấy được thân thể như vàng ròng của Ngài trưởng lão, Đại Đức Soreyya liền khởi ý “ước gì vị trưởng lão này là vợ ta” hoặc có thể là “ước gì vợ ta có màu da như trưởng lão”.

Ở đây, ước muốn thứ hai chỉ thể hiện sự ngưỡng mộ sắc tướng của vị A-la-hán và mong muốn rằng vợ mình cũng đẹp như vậy. Xét về khía cạnh này thì nó không đủ hợp lý để tạo ra tình huống về sau.

Chính ước muốn “vị trưởng lão làm vợ mình” mới là hành động bất kính và xúc phạm đến vị Thánh A-la-hán. Do dục ý bất thiện này quá mạnh nên Đại Đức Soreyya lập tức bị quả báo chuyển đổi giới tính thành người nữ. Quả của sự thay đổi này chính do Nghiệp lực bất thiện.

Sau khi chuyển đổi giới tính, Đại Đức Soreyya hoảng hốt bỏ đi biệt xứ. Khi đi đến Takkasilā thì gặp một đoàn thương buôn đã mai mối cho vị ấy với một vị chưởng khố thành Xá-vệ và Đại Đức Soreyya đã đồng ý làm vợ vị chưởng khố này.

*Ở đây, nếu Đại Đức Soreyya thực sự là một người dị tính, Ngài đã không khởi tham dục khi thấy sắc tướng rạng rỡ của vị tỳ khưu A-la-hán. Lại nữa, nếu Ngại là người dị tính, sau khi chịu quả ác nghiệp biến đổi thành thân nữ nhân, đáng lẽ Ngài đã trở thành một người đồng tính nữ (lesbian). Bởi vì, dù thân có thay đổi, nhưng ký ức, thói quen, sở thích và khuynh hướng giới tính khi xưa vẫn còn ở trong Đại Đức, Ngài vẫn sẽ thích một người nữ hơn thay vì làm vợ của một nam nhân khác.

Sau khi có chồng và hai con, nàng Soreyya đã trở về thành Soreyya, gặp lại Ngài Trưởng Lão Mahā-Kaccayana để xám hối mọi tội lỗi của mình năm xưa. Ngay trong lúc đó, nàng Sorreya trở lại với giới tính ban đầu thành Thiện Nam Sorreya đã có vợ và hai đứa con. Như vậy, ông thiện nam Sorreya có bốn người con, hai người có lúc làm vợ, hai người con lúc làm chồng.

Kinh cảm trước sự việc đã diễn ra, thiện nam Sorreya đã quyết định rời bỏ đời sống thế tục, xin được xuất gia với Ngài Trưởng Lão Mahā-kaccayana và được chấp thuận. Sau khi dân chúng và các vị tỳ khưu khác biết chuyện của Đại Đức Sorreya nên thường hỏi trêu ghẹo rằng:

“Ngài thương ai hơn, hai người con lúc làm cha hay hai người con lúc làm mẹ?”

Cảm thấy hỗ thẹn, nên Ngài Đại Đức đã ẩn tu và tinh tấn hành thiền. Về sau, Ngài chứng đắc đạo quả A-la-hán.

Câu chuyện về Đại Đức Vakkali và Đại Đức Soreyya cho thấy rằng, dù một người nam có khuynh hướng say mê, ưa thích một người nam khác (đồng tính) vẫn có thể được xuất gia và vẫn có thể thành tựu giải thoát.

Phần 3

Người khuyết tính khát dâm (āsitta-paṇḍaka) được biết đến như một loại người đồng tính nam ngày nay, tuy nhiên, nếu cho rằng tất cả người đồng tính nam đều là người Paṇḍaka thì nó không chính xác.

Theo Abhidhamma, có bốn loại phàm nhân:

1. Người khổ vô nhân: là chúng sanh không thể tiến hoá vì phải chịu thống khổ suốt kiếp sống, chẳng hạn, chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, Atula (asura)…

2. Người lạc vô nhân: là người từ lúc sanh ra bị khiếm khuyết về thể chất (khuyết tật) hoặc khiếm khuyết về tinh thần.

3. Người nhị nhân: là người sanh ra đã có sự hoàn thiện về thể chất lẫn tinh thần, nhưng lại không đủ căn tánh trí tuệ cho sự chứng đắc Đạo-Quả.

4. Người tam nhân (Tihetuka): là người tục sinh bằng tâm quả thiện có đầy đủ ba nhân: Vô tham, vô sân và vô si. Nói cách khác, người có đầy đủ điều kiện và căn tánh cho sự giác ngộ trong kiếp hiện tại.

Có Pāli như sau:

“Ở đây, đối với người nhị nhân và người vô nhân, đổng lực duy tác và đổng lực an chỉ (appanā) không hề có”13Abhs. Chương IV, phần 3..
Duhetukām’ahetukāmañca pan’ ettha kiriyājavanāni c’eva appanājavanāni ca na labhanti.

Người Paṇḍaka có tâm tục sinh là tâm quả thiện vô nhân thọ xả, thuộc tâm quan sát quả thiện thọ xả (upekkhā-santīraṇa), là kết quả của một nhị nhân đại thiện nghiệp bậc thấp (Dvihetuka-omakakusalakamma).

Điều này là vì khi họ tích lũy được một đại thiện nghiệp ở một trong những kiếp quá khứ, thiện tâm ấy không hợp với trí tuệ và bị vây quanh bởi các loại tâm bất thiện khác như tham, sân, si, ghen ghét, đố kỵ, v.v … Do thiện nghiệp của họ chỉ là nhị nhân đại thiện nghiệp bậc thấp nên tạo ra các uẩn tục sinh bậc thấp khiến họ là người vô nhân và không thể đắc thiền hay giải thoát trong kiếp hiện tại.

Theo Chú giải Abhidhammatthasaṅgaha, người Paṇḍaka thuộc 11 loại người Lạc Vô Nhân (Sugati ahetuka puggala):

1. Người mù bẩm sinh (jaccandha),

2. Người điếc bẩm sinh (jaccabadhira),

3. Người không có khứu giác (jaccaghānaka)

4. Người câm bẩm sinh (jaccamūga)

5. Người đần độn và ngu ngốc (jaccajaḷa)

6. Người bị điên (jaccummattaka)

7. Người vô căn (paṇḍaka): Là người không có bộ phận sinh dục nam hay sinh dục nữ.

Chú Giải :

“người thiếu nam căn, nữ căn từ khi tục sinh, gọi là phi nam, nữ”.
“Padatisingavekallabhāvaṃ guccatīti = paṇḍako”

8. Người lưỡng căn (tính) (ubhamobayañjanaka): Là người không có bộ phận sinh dục cố định. Khi nam tính mạnh thì bộ phận sinh dục nam xuất hiện, khi nữ tính mạnh thì bộ phận sinh dục nữ hiển lộ.

9. Người Napuṃsaka. Thường được hiểu là người không có giới tính, hay người trung tính, tuy nhiên, theo Chú giải, Napuṃsaka ở đây được hiểu là :

“Na paṃseti puriso viya na maddatīti = napuṃsako” : “những người không thể làm việc đầy đủ như nam”. Theo ý nghĩa này, “Napuṃsaka” nên được hiểu là người bất năng nam hay người nam bất lực.

10. Người nói lắp bẩm sinh (mamamka).

11. Người phi hỷ lạc Atula (vinipātika āsura). Là hạng chư thiên bậc thấp (Atula) có đời sống không vui, nương trên núi non, rừng rậm, sông rạch …Ngoài ra, chúng sanh trong cõi Phạm Thiên Vô Tưởng (Asañña-satta) cũng được gọi là người lạc vô nhân vì sự hiện hữu của họ chỉ là sắc mạng quyền do nghiệp sanh mà không có tâm tục sinh.

Trong số này, ngoại trừ phi nhân (không phải người), còn lại đều là những người có cùng điểm chung: “bẩm sinh bị khiếm khuyết về thể chất hoặc nhận thức hoặc cả hai”. Mười một hạng người vô nhân này không được phép xuất gia.

Thế nên, nếu cho rằng người đồng tính là người paṇḍaka, sự kiện trưởng lão Vakkali hay trưởng lão Soreyya xuất gia và chứng đắc giải thoát đã không thể xảy ra.

Lại nữa, Tạng Luật [Bu Ss 2] phân biệt rạch ròi giữa “người nam có khuynh hướng đồng tính” và “người Paṇḍaka (người nam vô căn)” là hai loại người khác biệt:

“Là người paṇḍaka, nhưng vị ấy coi người paṇḍaka ấy như nam nhân và khởi lên ái dục.
“Paṇḍako ca hoti purisasaññī sāratto ca”.

Là nam nhân, nhưng vị ấy coi nam nhân đó như người paṇḍaka, và vị ấy khởi lên ái dục.”
puriso ca hoti paṇḍakasaññī sāratto ca”.

Đời sống sinh hoạt trong Tăng Chúng thời Đức Phật là hoàn toàn tự do dựa trên sự tôn kính giới luật, không phải môi trường cầm tù, bị nhốt, hay bị quản thúc chặt chẽ. Các vị tỳ khưu có thể tự do đi lại, nên có một số vị, do không khéo tu tập và bị bức bách tham dục lâu ngày, nên đã bất chấp tìm đến những người nữ trong làng, hay thậm chí đến loài thú cái, xác chết nữ, khúc gỗ.…, hoặc với chính người mẹ của mình nên bị trục xuất khỏi Tăng Đoàn.

Vì vậy, nếu cho rằng, hành vi tình dục đồng giới của vị tỳ khưu xuất phát từ sự bức bách của tham dục nên “giải toả bất chấp” thì nó chỉ đúng nếu vị ấy đối với người nam, hay người Paṇḍaka, tưởng là người nữ.

“Tưởng là người nam” và “ Nhận biết người nam” khiến vị tỳ khưu phát khởi tham ái rồi thực hiện các hành động trên thân thể hay trên nam căn của người nam ấy. Đây là minh chứng cho sự hiện diện của người đồng tính trong Tăng Chúng thời Đức Phật, dù vậy, họ không được liệt vào hạng người Paṇḍaka.

Trong toàn bộ Tạng Luật, sự giải thích cho “Paṇḍaka” chỉ mang nghĩa là người nam vô căn; tức người nam không có bộ phận sinh dục rõ ràng cho dù là bẩm sinh hay bị thiến. Chính vì vậy, họ có khuynh hướng tình dục bất thường và phức tạp, trong số ấy, có đồng tính luyến ái.

Đối với đời sống phạm hạnh của vị tỳ khưu, bất cứ hành vi tình dục nào dù dị tính hay đồng tính hay thậm chí với chính bản thân, cũng đều bị nghiêm cấm. Nếu vượt quá giới hạn, vị ấy có thể bị trục xuất.

Sự kiện Đức Phật ban hành lệnh trục xuất người vô căn (Paṇḍaka) không phải vì họ là người đồng tính mà là vì ngoài những khiếm khuyết về thể chất khiến cho tâm lý bất ổn, họ không có đủ trí suy xét (hay khả năng nhận thức đúng sai) và khả năng tiết chế các hành vi trái với đạo đức, phạm hạnh. Do vậy, họ chạy theo những dục vọng ô uế vô độ, sống không có tàm quý, và làm tổn hại đến thanh danh của Tăng Đoàn.

“Vào lúc bấy giờ, có người vô căn (Paṇḍaka) nọ đã được xuất gia ở nơi các tỳ khưu. Người ấy đi đến gặp các vị tỳ khưu trẻ rồi nói như vầy:

– “Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.”

Các vị tỳ khưu đuổi đi:

– “Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, biến mất đi! Ai mà cần đến ngươi?

Bị các tỳ khưu xua đuổi, người ấy đi đến gặp các sa di to bự lớn xác rồi nói như vầy:

– “Này các đại đức, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi.”

Các vị sa di đuổi đi:

– “Này kẻ vô căn, tiêu mất đi! Này kẻ vô căn, biến mất đi! Ai mà cần đến ngươi?”

Người ấy khi bị các vị sa di xua đuổi lại đi đến gặp những người chăn voi, những người giữ ngựa rồi nói như vầy:

– “Này các đạo hữu, hãy đi đến. Hãy làm điều nhơ nhớp với tôi”.

Những người chăn voi, những người giữ ngựa đã làm điều nhơ nhớp. Những người ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng:

“Những Sa-môn Thích tử này là những kẻ vô căn. Những người nào trong bọn họ không phải là những kẻ vô căn thì những người ấy làm điều nhơ nhớp với những kẻ vô căn. Như vậy, chính tất cả những người này không có Phạm hạnh.”

Các tỳ khưu đã nghe được những người chăn voi những người giữ ngựa phàn nàn, phê phán, chê bai. Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– “Này các tỳ khưu, kẻ vô căn chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.” 14Đại Phẩm; Luật Tạng.

Theo Chú giải Kurundi:

“ Trong số năm loại người paṇḍaka, người khuyết tính khát dâm (āsitta-paṇḍaka) và khuyết tính ghen dâm (usūya-paṇḍaka) không bị ngăn cấm xuất gia. Ba loại còn lại thì bị cấm. Trong ba loại ấy, người khuyết tính bán nguyệt (pakkha-paṇḍaka) chỉ bị cấm xuất gia vào thời điểm nào mà người ấy khởi lên sự bức bách mà thôi”.
“Tesu āsittapaṇḍakassa ca usūyapaṇḍakassa ca pabbajjā na vāritā, itaresaṃ tiṇṇaṃ vāritā. tesupi pakkhapaṇḍakassa yasmiṃ pakkhe paṇḍako hoti, tasmiṃyevassa pakkhe pabbajjā vāritāti kurundiyaṃ vuttaṃ…”

Ở đây, người khuyết tính khát dâm (āsitta-paṇḍaka), người khuyết tính ghen dâm (usūya-paṇḍaka), và người khuyết tính bán nguyệt (pakkha-paṇḍaka) là ba loại người dù có khuynh hướng tâm lý và tình dục bất thường, tuy nhiên, họ vẫn có đầy đủ nam căn, cũng như, đầy đủ trí suy xét và khả năng tiết chế đúng mực đối với các giới hạn đạo đức và phạm hạnh.

Lại nữa, trong số ba loại ấy, āsitta-paṇḍaka (khuyết tính khát dâm) được xác định là người đồng tính, trong khi, usūya-paṇḍaka (khuyết tính ghen dâm) và pakkha-paṇḍaka (khuyết tính bán nguyệt) nằm trong bất kì đối tượng nào dù đồng tính (gay), song tính (bisexuality), hay dị tính (straight).

Vì vậy, nếu xét về ý nghĩa “người nam (Puriso)” trong Tạng Luật, ba hạng người này vẫn đủ điều kiện.

“Người nam nghĩa là nam nhân loại, không phải Dạ-xoa nam, không phải ma nam, không phải thú đực, có trí suy xét, có khả năng đứng chung nói chuyện”15Phẩm Bóng Tối. 4.2.2; Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni; Tạng Luật..
“Puriso nāma manussapuriso na yakkho na peto na tiracchānagato viññū paṭibalo santiṭṭhituṃ sallapituṃ”.

Đối với ba hạng người Paṇḍaka đồng tính, ngoại trừ người khuyết tính khát dâm (āsitta-paṇḍaka) là có nam căn đầy đủ và không bị cấm xuất gia. Người khuyết tính khuyết căn (opakkamika-paṇḍaka) và khuyết tính vô căn (napuṃsaka-paṇḍaka) là những hạng người đồng tính không có nam căn rõ ràng và bị cấm xuất gia.

Lại nữa, đối với người Paṇḍaka đồng tính, Chú Giải Tạng Luật ‘Samantapāsādikā.III, p.1042’ giải thích thêm:

“Paṇḍaka là những người chứa đầy những đam mê ô uế (Ussannakilesā); có dục vọng không thể vượt qua (avūpasantapariḷāhā); bị chi phối bởi dục vọng (pariḷāhāvegabhibhūta) và có sự khao khát bạn tình như những cô gái điếm (vesiyā) và những cô gái trẻ thô tục (thūlakumārīka).”

Dựa vào những dẫn chứng trên cho thấy, ngoài khác biệt về sự thiếu đủ nam căn, những người Paṇḍaka đồng tính đều có điểm chung là những biểu hiện từ tâm lý đến hành vi của họ đều khá “nữ tánh”, trong số ấy, nữ tánh nhất chính là hai hạng không có nam căn đầy đủ. Đó là lý do ngài Buddhaghosa mô tả họ giống như “những cô gái điếm và những cô gái trẻ thô tục”.

Và nếu cho rằng, tất cả người nam đồng tính đều là người Paṇḍaka, điều này có nghĩa là họ đều phải có biểu hiện và nhận thức giống nhau, như những gì Tạng Luật và Chú Giải mô tả. Tuy nhiên, điều này lại không chính xác bởi có những người đồng tính nam rất nam tính, sống có khuôn khổ đạo đức và hành xử đúng mực. Họ, thậm chí, có thể lập gia đình, có địa vị và thành công như những người bình thường khác. Và dĩ nhiên, trên con đường tâm linh, nếu có chí nguyện dũng mãnh và ba-la-mật đầy đủ, những người đồng tính nào không thuộc hạng Paṇḍaka vẫn có thể thành tựu đầy đủ như trưởng lão Vakkali hay trưởng lão Soreyya.

Riêng đối với ba hạng người Paṇḍaka bị cấm xuất gia, dù không thể giải thoát trong kiếp hiện tại, họ vẫn có thể thành tựu quả Trời nếu có sự tinh tấn tu tập, đồng thời, trợ duyên cho sự giải thoát trong kiếp sau.

Tỳ Khưu Pháp Quang


Ghi chú:

  • 1
  • 2
    Trọng yếu; Đại Phẩm; Tạng Luật.
  • 3
    VinA 5.991
  • 4
    Saddhammappajjotikāya 2.541
  • 5
    Vatthusampattikathā; Upasampadākaṇḍo.
  • 6
    Cp. Itv. sec. 92
  • 7
    ThagA.i.420
  • 8
    A. II. 71; Pug.7, 53; DhA. 114; Sn.A.242 DhA iii.113
  • 9
    Trích Kho Tàng Pháp Học; Tỳ khưu Giác Giới.
  • 10
    Phẩm Người Tối Thắng.
  • 11
    Ap.ii.465f.; AA.i.140
  • 12
    Tương ưng sáu xứ; Kinh Sakka; S.iv, 101
  • 13
    Abhs. Chương IV, phần 3.
  • 14
    Đại Phẩm; Luật Tạng.
  • 15
    Phẩm Bóng Tối. 4.2.2; Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni; Tạng Luật.