Giảng Giải Bài Kinh Hemavata Sutta
Mahāsi Sayādaw
Soạn dịch
Dhanapālaka
(Bản thảo 1)
Thời Gian Thuyết Bài Kinh
Kinh Hemavata là bài kinh ngắn nên có thể nhiều người đã bỏ qua. Trên thực tế, đây là bài pháp thứ hai của Đức Phật được giảng ngay sau bài Kinh Chuyển Pháp Luân (bài kinh đầu tiên của Đức Phật). Kinh Vô Ngã Tướng (Anattalakkhaṇa) được thuyết giảng sau bài kinh Hemavata và được thuyết vào đêm cũng ngày với Kinh Chuyển Pháp Luân.
Bài Pháp này thích hợp với tất cả mọi người. Đó là đàm luận giữa hai vị Chư Thiên Dạ Xoạ (yakkha), Hemavata và Dạ-xoa Sātāgiri1Ấn bản đầu tiên của cuốn sách này gọi các vị ấy là Chư Thiên ‘devas’. Trong văn bản Pāḷi, Dạ-xoa Sātāgiri và Hemavata là những vị thần bảo vệ Địa Cầu (yakkhas). (Ed.), các vị ấy tán thán những đức tánh đáng ngưỡng mộ của Đức Phật và cách ứng xử của những vị Đệ Tử của Đức Phật. Một nữ nhân nghe được cuộc đàm luận tán thán Ân Đức của Phật đến nỗi vị ấy chứng đắc Đạo Quả Nhập Lưu (sotāpanna), mặc dầu nữ nhân ấy vẫn chưa biết việc Thế Tôn đã chứng đắc Quả Vị Phật.
Sẽ tốt đẹp biết mấy nếu Thính chúng của Sư đạt được sự chứng ngộ giáo Pháp giống như nữ nhân ấy. Vị ấy chỉ nghe một cuộc đàm luận ngắn trong khi thính chúng của Sư lại nghe một bài pháp kéo dài hơn hai tiếng mỗi ngày trong suốt ba hay bốn ngày liền. Thính chúng của Sư sẽ học được nhiều điều từ bài Pháp thoại hơn nữ nhân đã học từ một cuộc đàm thoại ngắn. Sư mong rằng, các vị ấy ít nhất sẽ chứng ngộ được Nhập Lưu thánh đạo tuỳ theo Ba-la-mật (pāramī) của mình.
Đức Phật đã thuyết giảng Giáo Pháp trong 45 năm cho loài người, chư thiên và phạm thiên trước khi ngài nhập diệt (parinibbāna). Từ lúc ngài nhập Nibbāna cho đến ngày nay là 2.506 năm2Bài Pháp này được thuyết giảng vào năm 1963., và cộng thêm 45 năm cuộc đời của ngài thì tuổi của Kinh Hemavata là 2.551 năm. Cũng lâu đời như Kinh Chuyển Pháp Luân, đây là một trong những bài kinh sớm nhất được Đức Phật thuyết giảng.
Vào lúc rạng sáng sau ngày trăng tròn tháng 5 cách đây 2.551 năm, Đức Bồ Tát Gotama đã chứng ngộ Phật quả. Ngài ở lại nơi đó trong vòng bảy ngày với bảy chỗ khác nhau. Sau 49 ngày, Đức Phật đi đến khu rừng Mīgadavana gần thành phố Ba-la-nại (Varanasi) để thuyết bài pháp đầu tiên cho nhóm năm vị Ẩn Sĩ. Bài Kinh đầu tiên được thuyết vào ngày rằm tháng Bảy, cách đây 2.551 năm. Lúc đó là buổi chiều tối khi mặt trời sắp lặn xuống chân trời phía Tây và mặt trăng đang nhô lên từ chân trời phía Đông.
Vô số chư thiên và phạm thiên cũng tụ họp quanh Đức Phật để nghe bài Kinh đầu tiên của Ngài. Trong số năm vị Ẩn Sĩ, người lớn tuổi nhất, Tôn giả Koṇḍañña, đã chứng ngộ Bậc Thánh Nhập lưu trong khi 180 triệu phạm thiên và vô số chư thiên đã đạt được sự chứng ngộ Giáo pháp, theo Mi-Tiên Vấn Đáp (Milinda Pañha).
Trong số chư thiên đó có Dạ-xoa Sātāgiri, tên vị ấy được gọi theo ngọn núi Sātā, nơi ở của mình. Dạ-xoa Sātāgiri rất hoan hỷ khi nghe Kinh Chuyển Pháp Luân, nhưng sau khi nhìn quanh, vị ấy không thấy bạn của mình. Dạ-xoa Sātāgiri mong muốn người bạn mình cũng có mặt, vì vô số chu kỳ Thế Giới đã trôi qua kể từ bài Pháp cuối cùng được thuyết giảng bởi Đức Phật Kassapa. Nay, Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, Ngài đang thuyết giảng bài Kinh Đầu Tiên. Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri thắc mắc tại sao bạn mình lại không đến để nghe Pháp. Do đó, Dạ-xoa Sātāgiri đã không chứng ngộ được giáo Pháp do tâm xao lãng như vậy.
Tầm Quan Trọng Của Việc Chú Tâm Lắng Nghe Pháp
Để đạt được sự chứng ngộ Giáo Pháp trong khi nghe thuyết pháp thì cần phải có sự bình an trong tâm. Chỉ có sự chú tâm và cẩn trọng mới đưa đến định, và tuệ giác chỉ có thể phát triển nhờ định. Nếu tâm trí phóng dật (lan thang) trong khi nói chuyện về gia đình, kinh tế hoặc các vấn đề thế tục khác thì định tâm sẽ không thể thành tựu. Nếu có sự lo lắng xuất hiện, nó sẽ tồi tệ hơn. Khi xao lãng và lo âu xuất hiện, cốt lõi của Giáo Pháp sẽ bị bỏ sót, và khi thiếu định tâm, tuệ giác sẽ không chín muồi. Nếu một người không thể đạt được tuệ giác (vipassanā) thì làm sao người đó có thể đạt được sự chứng ngộ Giáo pháp? Vì vậy, sự chú tâm trong khi nghe một bài pháp thoại rất là quan trọng. Trong Tương Ưng Kassapa, cách nghe thuyết Pháp được chỉ dạy như sau.
Nghe Pháp Một Cách Đúng Đắn
Một cuộc đàm luận phải được tổ chức với động cơ mang tới sự lợi ích, cũng giống như trong một giao dịch thương mại, việc trả giá cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Cũng như khi thu hoạch hoa màu cũng cần phải cẩn thận không để sót một hạt ngô, một hạt đậu nào. Việc bảo quản vàng bạc và đá quý phải hết sức cẩn thận là điều hiển nhiên. Tương tự như vậy, khi nghe một bài pháp, một người phải cố gắng nhận ra ý nghĩa của từng lời được thuyết giảng. Người thính Pháp phải lắng nghe cẩn thận, với tâm tập trung hoàn toàn, và phải thực hành đúng Pháp.
Đó là cách đúng đắn khi tham dự một buổi thuyết Pháp. Nếu một người nghe Pháp như vậy, tâm họ sẽ an tĩnh và nhập vào bài Pháp, tức là họ không bị xao lãng trong khi nghe Pháp, do đó người ấy sẽ đạt được tâm thanh tịnh. Nhiều chúng sinh đã chứng ngộ Giáo Pháp trong khi chăm chú lắng nghe bài Pháp về Tứ Diệu Đế. Tôn giả Koṇḍañña, chư thiên và phạm thiên đã thoát khỏi vòng luân hồi trong khi nghe bài giảng về Kinh Chuyển pháp luân ngay trong ngày hôm đó, là nhờ sự tập trung chú ý vào lời dạy của Đức Phật. Trong trường hợp này, Dạ-xoa Sātāgiri có thể đã bỏ sót một ý nghĩa quan trọng trong bài Kinh khi đang nghĩ về người bạn Hemavata của mình. Nếu vị ấy không bỏ lỡ những ý nghĩa đó, vị ấy đã có thể suy tư sâu sắc về ý nghĩa của bài kinh. Nhưng vị ấy không hiểu bài giảng lắm vì vị ấy đang thắc mắc tại sao bạn mình vẫn chưa xuất hiện; vị ấy đang nghĩ rằng bạn mình có thể đang bị chìm đắm trong dục lạc. Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri đã không chứng ngộ được Giáo Pháp.
Dạ-xoa Hemavata chìm đắm trong dục lạc, hay nói cách khác là “bị chìm đắm trong những thú vui trần tục”. Những thú vui trần tục nhấn chìm con người mặc dù chúng không có giá trị nội tại. Một số người không thể đến tham dự bài thuyết giảng này vì hiện tại họ đang bị nhấn chìm những thú vui trần tục. Việc thực hành Giáo Pháp còn rất xa vời đối với những người như vậy. Họ thường nghĩ rằng Giáo Pháp có thể để thực hành sau và trong hiện tại, việc kiếm sống, sự phát triển trong cuộc sống và tận hưởng dục lạc quan trọng hơn. Đó là do họ bị dục lạc của thế gian nhấn chìm. Tuy nhiên, thực hành Pháp thực sự là việc cấp bách và quan trọng. Thực hành Giáo Pháp chỉ có trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế hay thời kỳ giáo Pháp của Đức Phật còn hiện hữu. Còn những dục lạc trong thế tục thì lúc nào cũng có. Vì vậy, chúng ta nên chú ý đến việc thực hành Giáo Pháp sau khi đã có sinh kế (công việc) ổn định.
Bằng cách thực hành Pháp, một người có thể đạt đến giai đoạn chứng ngộ Pháp và nhờ đó, họ thoát khỏi sự nguy hiểm trong khổ cảnh (apāya) và địa ngục (niraya). Ngay cả khi một người chứng ngộ được đạo (magga) và quả (phala), họ vẫn có thể thực hành Pháp và tạo ra thiện nghiệp. Vì vậy, họ có thể tái sanh làm người, làm chư thiên hoặc vào các cõi cao hơn và thâu được nhiều lợi ích. Tuy nhiên, nếu những ai lãng phí thời gian vào những công việc trong đời sống thế tục, họ sẽ không được trang bị đầy đủ để có được một cuộc sống tốt đẹp trong kiếp sau. Do đó, nếu tin rằng những dục lạc thế tục quan trọng và cấp bách hơn, là do bị dục lạc trong thế gian nhấn chìm họ. Trên thực tế, đó là một ảo ảnh. Dạ-xoa Sātāgiri đang suy nghĩ về người bạn vắng mặt của mình và để cho tâm trí lang thang (phóng dật) trong bài thuyết pháp của Đức Phật. Đó là lý do tại sao vị ấy đã bỏ lỡ cơ hội chứng ngộ Giáo Pháp.
Sau khi Đức Phật thuyết xong bài Kinh Chuyển Pháp Luân, Dạ-xoa Sātāgiri rời hội chúng để mời bạn mình. Dạ-xoa Sātāgiri là một dạ xoa Chúa, và được hộ tống vởi năm trăm tuỳ tùng với những cỗ xe được kéo bởi voi, ngựa và garuḷa (những con chim to lớn và mạnh mẽ) kéo. Cũng trong lúc đó, Dạ-xoa Hemavata đang trên đường mời Dạ-xoa Sātāgiri đến dự lễ hội hoa trên cõi Trời – những loài hoa tuyệt đẹp đó đang nở rộ trên dãy núi Hy-Mã-Lạp-Sơn (Himalaya). Dạ-xoa Sātāgiri cũng đi đến với các tuỳ tùng và xe ngựa. Khi cả hai đang đi trên không, Dạ-xoa Hemavata hướng về phía nam còn Dạ-xoa Sātāgiri hướng về phía bắc và họ gặp nhau ở Thành Vương-Xá (Rājagaha).
Khi hai người bạn gặp nhau, Hemavata nói: “Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, dãy Himalaya bây giờ có rất nhiều hoa. Vì vậy, tôi đến mời bạn cùng tham dự lễ hội này.”
Dạ-xoa Sātāgiri hỏi bạn mình tại sao có nhiều loài hoa đang nở ở dãy Himalaya như vậy. Dạ-xoa Hemavata nói rằng mình không biết nguyên do. Rồi Dạ-xoa Sātāgiri nói: “Không chỉ dãy Himalaya nở hoa rực rỡ, mà chỗ nào hoa cũng nở rộ như vậy. Bởi vì Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha) đã xuất hiện trên thế gian cách đây hai tháng. Hôm nay ngài đã giảng bài kinh đầu tiên, Kinh Chuyển Pháp Luân, và tất cả cây cối trên trái đất đã nở hoa để tỏ lòng tôn kính Bậc Giác Ngộ, khi tôi đang tham dự buổi thuyết pháp, tôi nhớ đến Bạn nên tôi đến mời Bạn đi tới tham dự.”
Nữ Nhân Tình Cờ Nghe Được Cuộc Đàm Luận Của Hai Vị Chư Thiên Dạ-Xoa
Trong khi Dạ-xoa Hemavata và Dạ-xoa Sātāgiri đang đàm luận, con gái của một đại phú già (nhà giàu có) có tên là Kāḷī đang tận hưởng làn gió nhẹ sau khi mở cửa sổ phòng tắm của mình. Tháng Bảy ở thành Rājagaha rất nóng, cũng như ở Mandalay hay Shwebo. Lúc đó, Kāḷī đang ở trong nhà và cảm thấy oi bức. Vì vậy, nàng mở cửa sổ và tận hưởng làn gió mát thì nàng nghe thấy hai chư thiên Dạ-Xoa (yakkha) đang trò chuyện phía trên đầu mình. Nàng Kāḷī chăm chú lắng nghe cuộc đàm luận của họ. Nàng nhận ra rằng cuộc đàm luận này không phải giữa hai con người và đoán rằng đó cuộn đàm luận giữa hai Dạ-xoa. Nàng Kāḷī chắc phải khoảng mười sáu hoặc mười bảy tuổi, vì ở Ấn Độ thời đó, phụ nữ kết hôn sớm và lập gia đình ở độ tuổi đó. Đứa bé mà cô đang mang trong mình không ai khác chính là đệ tử tương lai của Đức Phật, Trưởng Lão Soṇakuṭikaṇṇa. Sau này, Ngài được Đức Phật tán dương là vị đệ nhất về Thuyết Pháp3Aṅguttaranikāya, Vol. i. 24..
Lời mời của Dạ-xoa Sātāgiri
Dạ-xoa Sātāgiri nói: “Này bạn Hemavata, hôm nay là ngày rằm trong tháng, ngày Bố-tát (Uposatha), đêm nay bầu trời thật trong sáng. Cũng trong hôm nay, Đức Phật thuyết giảng bài Pháp đầu tiên, nên hoa nở rộ khắp nơi không chỉ trên dãy Himalaya mà còn ở núi Sātā cùng khắp quả địa cầu nữa. Những bông hoa ấy nở rộ để tỏ lòng tôn kính đến Đức Phật khi Ngài thuyết bài Pháp đầu tiên. Ở phía Đông, mặt trăng chiếu sáng khắp nơi cùng với ngôi sao Āsāḷhī làm cho đêm nay thật linh thiêng”.
Thế gian chắc hẳn rất đẹp, với hoa nở rộ và ánh sáng trên bầu trời dưới thiên nhãn của chư thiên. Ngay cả đối với mắt con người, khung cảnh ấy hẳn phải rất đẹp. Tình cờ, có lần Sư đi hành hương đến ngôi chùa Kyaiktiyo. Đó là đêm ngày 14 tháng 2 năm 1931, với mặt trăng sắp tròn và sáng tỏ. Từ dãy núi nhìn ra, Sư thấy những ngọn đồi và thung lũng xung quanh thật đẹp dưới ánh sáng mặt trăng. Một số loại cây đã nở hoa. Những hàng cây mọc trên sườn núi đã làm cho toàn thể bức tranh trở nên sinh động hơn. Khắp thế gian chắc hẳn rất đẹp đối với Chư Thiên vào ngày thuyết giảng đầu tiên. Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri đã mời người bạn của mình là Dạ-xoa Hemavata đi đến đảnh lễ Đức Phật.
Dạ-xoa Sātāgiri nói với người bạn của mình, Dạ-xoa Hemavata rằng:
“Bây giờ chúng ta hãy đi đến đảnh lễ Bậc Đại Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật Gotama”.
Rồi Dạ-xoa Sātāgiri lại nói tiếp rằng Bậc Đạo Sư Siddhattha thuộc dòng dõi Gotama của bộ tộc Thích-ca (Sakyan), đã thực hành Giáo pháp trong rừng Uruvela trong sáu năm. Bây giờ ngài đã trở thành Đấng Toàn Giác có chín Ân Đức cao thượng bắt đầu bằng Ân Đức Arahant (A-la-hán). Sư sẽ giải thích ngắn gọn chín Ân Đức của Bậc Chánh Giác.
Những Ân Đức Của Đức Phật
Từ ‘arahaṃ’ có nghĩa là ‘xứng đáng.’
Đức Phật xứng đáng cái gì?
Ngài xứng đáng được tôn kính và cúng dường. Người ta thờ cúng nhiều đối tượng khác nhau, như: cây cối, rừng rậm, núi non, đại dương, bầu trời, mặt trời, mặt trăng, các hành tinh. Một số người thờ cúng các Chư Thiên, một số thờ cúng Đức Vua Trời, trong khi một số khác thờ cúng Phạm Thiên (brahmā). Một số người thờ cúng những vị giáo chủ của nhiều tôn giáo khác nhau. Tại sao người ta lại thờ cúng, tôn kính? Họ thờ cúng vì họ muốn thoát khỏi nguy hiểm và tai họa. Mọi người đều muốn thoát khỏi nguy hiểm, muốn được thịnh vượng, khỏe mạnh, sống lâu và giàu có. Không chỉ con người mà cả chư thiên cũng có những mong cầu tương tự. Mọi người đa phần đều mong muốn đạt được những điều lớn lao vượt quá khả năng mà họ có thể làm được, vì vậy, họ sống phụ thuộc vào thần linh, như thần núi hay thần cây. Họ thờ cúng và tôn kính các vị ấy. Một số người còn tưởng tượng ra một chúng sanh có quyền năng tạo ra thế giới, con người và vạn vật, rồi tôn thờ chúng sanh ấy. Mặc dầu chưa có ai từng thấy một chúng sanh quyền năng như vậy và cũng không ai có thể mô tả được hình dáng của chúng sanh ấy, nhưng mọi người vẫn tôn thờ vì có người nói ngày xưa (trong quá khứ) họ đã nhìn thấy. Có lẽ người ấy đang mơ.
Mỗi thế hệ trôi qua, con người đều thờ cúng tuỳ theo đức tin của mình. Ngay cả trong thời đại khoa học ngày này, vẫn còn tồn tại sự tin tưởng vào các truyền thống từ xa xưa. Chuyện tin rằng việc cầu nguyện sẽ cứu vớt qua khỏi nghịch cảnh là điều không có cơ sở. Nếu các vị Thần có thể cứu vớt những người đang cầu nguyện thì tất cả những ai cầu nguyện đều có sự giàu có, sức khoẻ và thịnh vượng, nhưng thực tế không phải vậy. Những người làm việc một cách siêng năng, nỗ lực sẽ có được sự thịnh vượng và giàu có từ chính công việc làm ăn của mình. Đó là phần thưởng xứng đáng cho họ, nó không đến từ việc thờ cúng thần linh.
Đức Phật không nói: “Hãy tôn kính ta thì ta sẽ cứu ngươi”. Ngài nói rằng một người phải nhận lấy quả báo (kết quả) từ những hành động thiện (việc tốt) hay bất thiện (việc xấu ác) của chính mình. Tuy nhiên, một người có thể thanh tựu được những công đức (phước thiện) nếu tôn kính, thờ cúng một đối tượng có giới (sīla) và Ân Đức cao thượng. Với phước thiện đã tạo, người ấy sẽ có cơ hội nhận quả trong kiếp sống hiện tại lẫn kiếp sống vị lai – Đức Phật đã nói như vậy. Nhưng nếu người ta thờ cúng, tôn kính những đối tượng không có Ân Đức cao thượng thì sự thờ cúng như vậy là không có lợi ích. Cũng như giữa gạch và sỏi lại tưởng chúng là đá quý. Làm sao chúng ta có thể hi vọng giá bán của gạch sỏi ngang bằng giá của đá quý được? Nhưng nếu chúng ta có viên đã quý thật thì chúng ta có thể bán chúng với giá trị tương xứng.
Cũng vậy, nếu chúng ta tôn thờ những bậc có Ân Đức cao thượng, chúng ta sẽ tạo thêm nhiều Phước Báu. Đối với Đức Phật, Ngài là cao thượng nhất trong những bậc cao thượng. Vì vậy, nếu chư thiên, phạm thiên, loài người tôn kính Đức Phật, họ sẽ tích luỹ thêm công đức và nhận lại quả phước thiện đã gieo trong kiếp người, kiếp chư thiên cho đến khi chứng ngộ Niết-bàn. Những quả báu đó không phải do Đức Phật ban phước mà là kết quả tự nhiên của phước thiện đã tích luỹ từ việc tôn kính Đức Phật. Do đó, Đức Phật xứng đáng với danh hiệu hay ân đức A-la-hán “Arahaṃ” – Vị xứng đáng để cho nhân loại và chư thiên tôn kính. Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri đã tán thán Đức Phật bằng ân đức cao thượng này.
Ý nghĩa khác của Arahaṃ là “xà lìa một cái gì đó.” Nghĩa là Đức Phật đã xa lìa các tâm phiền não (kilesa). Chúng sanh trong ba giới bốn loài đều khao khát những đối tượng đáng hài lòng, hay nói cách khác, họ có lòng tham (lobha). Họ trở nên sân hận khi gặp phải những điều kích động sự tức giận của họ (dosa), và bị si mê (moha). Ngược lại, Đức Phật đã tránh xa khỏi tham, sân, si. Đó là lý do tại sao Đức Phật xứng đáng với Ân Đức cao thượng là Arahaṃ.
Ân Đức tiếp theo là Sammāsambuddha. Sammā có nghĩa là ‘sự thật trọn vẹn’; Saṃ có nghĩa là ‘tự mình’; buddha có nghĩa là ‘biết’. Vì vậy, thuật ngữ Sammāsambuddha có nghĩa là ‘tự mình biết rõ sự thật một cách trọn vẹn’. Mặc dù trước khi giác ngộ thành Phật, Ngài đã học Thiền dưới sự hướng dẫn của Ẩn Sĩ Āḷāra và Uddaka (những ẩn sĩ khổ hạnh này đã thực hành thiền định đạt tới trạng thái rất cao), nhưng việc chứng đắc Phật quả của Ngài là nhờ phương pháp phát triển tuệ giác của chính Ngài. Ngài đã đạt được các tầng thiền định (jhāna) bằng phương pháp niệm hơi thở (ānāpānasati), và thấu triệt Lý Duyên Khởi (paṭiccasamuppāda) bằng trí tuệ của chính Ngài. Đức Phật đã phân tách các hiện tượng thân và tâm, nhờ vậy mà Ngài đã Giác Ngộ. Đây là lời tóm tắt về sự chứng ngộ chân lý của Đức Phật. Đó là lý do tại sao Đức Phật xứng đáng với Ân Đức cao thượng là ‘Sammāsambuddha.’
Khi Ngài giác ngộ thành Phật, Ngài có được sự hiểu biết đầy đủ về quá khứ, hiện tại và tương lai – Ngài biết ngay bất cứ điều gì khi Ngài nghĩ đến. Sự hiểu biết của Đức Phật không có khiếm khuyết nào. Đức Phật xứng đáng với Ân Đức cao thượng ‘Buddha’, vì Ngài hiểu biết Giáo pháp một cách đầy đủ và trọn vẹn. Đây là điều Dạ-xoa Sātāgiri đã nói để tán thán Đức Phật.
Dạ-xoa Sātāgiri nói với Dạ-xoa Hemavata rằng những Ân Đức cao thượng này của Đức Phật nhiều đến mức người ta không thể đếm được – họ sẽ phải giải thích những Ân Đức ấy trong hàng nghìn năm mới có thể giải thích đầy đủ. Sau đó, Dạ-xoa Sātāgiri mời bạn mình đến nghe Đức Phật thuyết pháp.
Sau khi nghe bạn mình kể, Dạ-xoa Hemavata đã hỏi một số điểm để tìm hiểu xem liệu người mà Dạ-xoa Sātāgiri nhắc đến có thực sự là một vị Phật hay không. Dạ-xoa Hemavata đặt câu hỏi cho bạn mình và Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời chúng. Vào thời điểm đó, các du sĩ ngoại đạo — Purāṇa Kassapa, Makkhali Gosāla, và bốn người khác — đều tự xưng là Phật, nên cần phải có một vài thao tác kiểm tra.
Đức Phật Có Công Bằng Không?
“Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, Đạo Sư của bạn có thể giữ tâm bình thản không? Đạo Sư của bạn có luôn đối xử bình đẳng với tất cả chúng sinh mà không có bất kỳ sự phân biệt hay thiên vị nào không? Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, trong đời này có nhiều người tự cho mình là Phật. Xin hỏi bạn, liệu Đức Phật của bạn có bình đẳng với các đệ tử của mình và của người khác không? Liệu Ngài có thể giữ thiện tâm của mình tới tất cả chúng sinh không? Liệu Ngài có lòng từ mẫn (mettā) đối với tất cả các chúng sanh và mong cho họ luôn được an lạc, hạnh phúc không? Liệu Ngài có lòng bi mẫn (karuṇā) bình đẳng với tất cả chúng sanh không?”
Đây là một câu hỏi thích đáng, bởi vì một số người tự nhận mình là Phật – nhưng họ chỉ có lòng từ bi với những ai người theo họ và tôn thờ họ. Họ nói rằng họ chỉ cứu vớt những ai tôn thờ và theo họ, còn những ai không tôn thờ và theo họ sẽ bị đọa xuống địa ngục. Những người tuyên bố mình là Phật như vậy không phải là những vị Phật thực sự. Bởi vì một vị Phật thực sự mới có tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh.
Dạ-xoa Hemavata nói tiếp: “Này bạn, liệu Đức Phật của bạn có thể kiểm soát (thu thúc) được tâm mình và giữ tâm an nhiên trước sự dễ chịu hay khó chịu không?”
Trên thế gian này, con người hài lòng khi gặp được những điều dễ chịu và đắm chìm trong chúng. Khi gặp điều khó chịu, họ không hài lòng, tức giận, thất vọng và tỏ ra sân hận. Họ làm theo cảm xúc và không thể thu thúc được tâm trí mình. Tuy nhiên, tâm của một vị Phật luôn được thu thúc nên câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata rất quan trọng.
Người bình thường hay để tâm trí chạy theo những cảm xúc của họ. Họ mỉm cười nếu niềm vui xuất hiện và bĩu môi nếu có điều gì khiến họ khinh thường. Họ cười khi vui và khóc khi buồn. Lúc đầu, họ giữ mình không đi đến những nơi không thích hợp, nhưng khi bị cám dỗ quá mạnh, họ lại đi. Tương tự, họ nói và làm những điều không đúng đắn sau một thời gian ngắn kiềm chế. Điều này được gọi là “để tâm trí chạy theo các cảm xúc.”
Đừng nói đến những người khác, một số thiền sinh thất vọng vì họ không thể tiến bộ và bỏ cuộc. Khi họ chuẩn bị rời đi, vị thầy của họ phải khuyên nhủ họ ở lại. Như vậy, khi họ được khuyên nhủ để tiếp tục hành thiền, họ tiến bộ và hài lòng. Tuy nhiên, một số không thể thuyết phục và họ bỏ về nhà. Đó là một thí dụ khác về việc để cho Tâm cuốn theo cảm giác của mình. Có những trường hợp thiền sinh đạt đến tuệ nhàm chán (nibbida-ñāṇa), họ thấy mọi thứ thật mệt mỏi và muốn trở về nhà. Nếu những thiền sinh đó tiếp tục hành thiền, họ sẽ đạt được tuệ giác đầy đủ, nhưng họ không thể thu thúc được tâm của mình và bỏ cuộc. Đó thật là một sự mất mát! Tuy nhiên, hầu hết các thiền sinh đều nghe theo lời khuyên dạy của vị hướng dẫn hành thiền và đã thu thúc được tâm mình.
Trong cuộc sống thế tục cũng vậy, có rất nhiều thứ mà người ta có thể thu thúc được tâm trí mình. Đức Phật dạy chúng ta cần phải biết thu thúc tâm của mình. Những ai thực hành thiền đều có thể thu thúc được tâm mình ở mức độ đáng kể. Tuy nhiên, những ai không làm được như vậy sẽ nằm ngoài sự bảo hộ của Pháp. Vì họ không có cảm giác xấu hổ (hirī) hay sợ hãi (ottappa), nên họ làm hay nói bất cứ điều gì mà họ thích. Vì vậy mà Dạ-xoa Hemavata hỏi bạn mình rằng liệu Đức Phật thu thúc được Tâm của Ngài không.
Câu Hỏi Tầm Cầu (Tìm Hiểu) Pháp
Đặt câu hỏi để tầm cầu rất là quan trọng. Một vị Đại Đức nào đó kể với Sư rằng có lần Ngài bị một vị khách người Mỹ thẩm vấn trong một buổi bố thí tại nhà một thiện tín. Những câu hỏi rất sắc bén và sâu sắc, và Đại Đức nói rằng thật là một thử thách khi bị hỏi như vậy. Tuy nhiên, Đại Đức lại nổi tiếng là người có tài vấn đáp. Vị khách hỏi Đại Đức rằng Ngài đã thực hành Pháp được bao lâu và đối tượng hành thiền (ārammaṇa) của Ngài là gì? Đại Đức nói rằng những câu hỏi như vậy thật đáng xấu hổ. Tuy nhiên, đối với tôi những câu hỏi như vậy là hợp lý bởi vì một người tìm hiểu Giáo pháp có trí tuệ sẽ đặt những câu hỏi tầm cầu như vậy. Đối với một vị sư bảy mươi tuổi nổi tiếng về học sâu hiểu rộng, người hỏi nên đặt những câu hỏi tìm hiểu như vậy, vì nó liên quan đến kinh nghiệm cá nhân trong việc hành thiền. Điều quan trọng là có thể trả lời một cách dứt khoát cho những câu hỏi như vậy mà không tỏ ra xấu hổ.
Dạ-xoa Hemavata không phải là một chúng sanh bình thường. Vào thời Đức Phật Kassapa, Ngài là một vị Sư đáng tôn kính giảng dạy năm trăm đệ tử. Đó là lý do tại sao Dạ-xoa ấy đặt câu hỏi về ân đức của Đức Phật. Dạ-xoa Sātāgiri lúc đó cũng là một Sư đáng kính giống như Hemavata, vị ấy cũng đã dạy năm trăm đệ tử của mình.
Đức Phật Có Phải Là Bậc Có Lòng Bi Đối Với Tất Cả Chúng Sanh
Đối với những câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata, Dạ-xoa Sātāgiri trả lời chính xác rằng:
“Này bạn Hemavata, Đạo Sư của chúng ta là Đức Phật, Ngài nhìn mọi chúng sinh đều như nhau. Ngài không còn cái tâm thiên vị thương hay ghét với bất kỳ chúng sanh nào.”
Đây là câu trả lời của Dạ-xoa Sātāgiri. Ý vị ấy muốn nói rằng Đức Phật luôn có lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh, cho dù họ có tôn thờ Ngài hay không. Những đệ tử thân cận của Ngài là những vị đã đạt được giác ngộ khi nghe bài pháp đầu tiên của Ngài, và những đệ tử chưa chứng ngộ giáo Pháp thì vẫn tiếp tục thực hành theo giáo Pháp của Ngài. Tất nhiên, một số người sống ngoài giáo Pháp của Đức Phật và những người theo Ác-ma (Māra) luôn thích chống lại Đức Phật. Dạ-xoa Sātāgiri nói:
“Bậc đạo Sư của chúng ta là Đức Phật, Ngài luôn có lòng từ bi đến tất cả chúng sanh mà không có sự phân biệt đối xử nào”.
Đó là thời kỳ đầu của Giáo Pháp. Sau này, Đức Phật cũng đối xử bình đẳng với những thiện nam, tín nữ của Ngài, những vị đã bố thí bốn vật dụng thiết yếu, cũng như đối với những vị Bà-la-môn và những ngoại đạo chống đối Ngài. Đức Phật cũng đối xử bình đẳng với cả người kết oan trái với Ngài. Ngài đối xử với Devadatta cũng như đối với con trai của mình là Rāhula. Đức Phật không thiên vị đến bất kỳ chúng sanh nào mà Ngài rãi lòng từ bi đến tất cả các chúng sanh.
Vì vậy Dạ-xoa Sātāgiri trả lời: “Bậc Đạo Sư của chúng ta là Đức Phật, Ngài luôn luôn có lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài”.
Đức Phật Rất Đáng Tôn Kính
Con người thường có tâm thiên vị với bạn bè và gia đình, nhưng lại có thành kiến với kẻ thù của mình, nên họ không thể hết lòng tôn kính Đức Phật. Sự thiên vị hiện diện ở khắp nơi trong cuộc sống của con người. Đối với người họ yêu mến, họ sẽ giúp đỡ người ấy bằng mọi cách có thể, nhượng bộ hoặc chúc phúc. Ngược lại, họ không muốn giúp đỡ kẻ thù của mình. Nếu yêu cầu họ giúp đỡ những người xa lạ thì họ cũng sẽ giúp đỡ một cách miễn cưỡng. Sự khách quan là điều cực kỳ hiếm. Đừng nói gì đến người ngoài, con người còn thậm chí không thể có được sự bình đẳng đối với các thành viên trong gia đình mình.
Ngay cả những vị thần trong các tôn giáo khác cũng ít khi công bằng. Họ nói rằng: “Ta chỉ cứu những tín đồ của mình và tống kẻ khác xuống địa ngục”. So với những vị thần như vậy thì Đức Phật thật đáng tôn kính.
Đức Phật mong muốn tất cả chúng sinh được hạnh phúc, cũng giống như Ngài đã mong ước cho con trai mình là Rāhula; ngài muốn tất cả chúng sinh được chứng ngộ Niết bàn, cũng như ngài muốn Rāhula chứng ngộ được niết bàn; Đức Phật có lòng bi mẫn và cảm thông đối với tất cả chúng sanh. Thật sự, sống với tâm không thiên vị là điều rất khó, nhưng khi Đức Phật phát tâm đại bi, Ngài đều có lòng bi mẫn đến tất cả các chúng sanh trong các cõi”.
Phát Sanh Tâm Đại Bi
Theo ‘Đạo Vô Ngại Giải’ (Paṭisambhidāmagga), bởi vì Đức Phật biết được những đau khổ triền miên của già, bệnh và chết hiện hữu trong mỗi chúng sanh, nên lòng đại bi (mahākaruṇā) phát sanh lên trong tâm ngài. Quan sát khắp các cõi giới, Ngài nhìn thấy tất cả các chúng sanh đều bị chi phối bởi già, bệnh và chết, nên lòng đại bi khởi lên trong tâm Ngài. Ví như một người có lòng thương xót người khác đang gặp phải hoàn cảnh khốn cùng. Lòng bi mẫn của người phàm không sâu sắc lắm, nhưng lòng bi mẫn của Đức Phật thì vô cùng sâu sắc và không có giới hạn. Đức Phật thương xót các chúng sanh bởi vì họ bị chìm đắm trong những trạng thái đau khổ trong hiện tại, và Ngài cũng thấy rằng, trong kiếp sau, một số người sẽ tái sanh vào trong các cõi đọa xứ, như: địa ngục, súc sinh (tiracchāna), A-tu-la (asura), hay ngạ quỷ (peta), lúc ấy lòng từ bi của ngại còn quảng đại hơn nữa. Vì thấy các chúng sanh sẽ phải chịu già, bệnh, chết trong mỗi kiếp ở tương lai, nên Đức Phật luôn có lòng từ bi đến tất cả chúng sanh. Hãy nhìn xem một kiếp người như vầy. Ngay từ khi còn nhỏ, người ta phải đi học, học càng nhiều càng tốt. Khi trưởng thành, người ta phải có một công ăn việc làm ổn định. Họ làm việc cho đến khi trở nên già yếu. Rồi tiếp đó, họ mắc phải nhiều căn bệnh. Cuối cùng, khi bệnh không được chữa khỏi, họ phải chết. Mọi người thường không hay biết gì về sự suy thoái của cái thân này, đây là điều không thể tránh khỏi. Khi một căn bệnh nan y xuất hiện và không thể chữa khỏi thì cái chết đang chờ đợi là điều chắc chắn. Chỉ đến lúc đó, họ mới nhận ra bi kịch của cuộc sống. Những thân quyến và bạn bè của họ cố gắng hết sức để xoa dịu nỗi đau, nhưng vẫn không thể làm gì được. Khi họ chết đi, những người thân của họ vây quanh rồi khóc lóc. Những nỗi buồn đối với người đã khuất dần dần sẽ vơi đi rồi quên mất chỉ sau vài tháng, vài năm. Tóm lại, một kiếp nhân sinh (một kiếp người) chỉ là một giọt nước trong biển luân hồi mênh mông.
Kiếp sống vị lai cũng diễn ra tương tợ như vậy – cơ thể dần dần suy thoái, tuổi già và bệnh tật lại hiện diện, và cuối cùng là cái chết đến. Đức Phật biết rõ điều này. Ngài thấy vô số chúng sanh đang bị bệnh và sắp phải chết, trong khi nhìn thấy sự những thân quyến của họ đau khổ, lòng đại bi khởi lên nơi tâm ngài. Đức Phật biết và thấy rõ sinh, già, bệnh và chết của tất cả chúng sanh, nên Ngài cảm thấy thương xót các chúng sanh ấy; đó là cách mà lòng đại bi sanh khởi nơi Ngài.
Vì vậy, chúng ta mới thấy: “Vô thường đẩy chúng sanh đến già, bệnh, chết”. Đức Phật đã thấy trước rằng, đến khi nào chúng sanh thực hành theo lời dạy của ngài (Pháp) thì họ sẽ được giải thoát, còn không họ sẽ mãi mãi bị kẹt trong vòng luân hồi và chịu khổ vô cùng tận. Chính vì lẽ đó mà Đức Phật có lòng thương xót đối với tất cả chúng sanh cũng giống như thương xót con trai của mình là Rāhula. Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời câu hỏi đầu tiên của Dạ-xoa Hemavata như vậy; “Tất cả chúng sanh trong ba giới bốn loài đều bất lực, không có một ai để nương tựa. Vì vậy, Đức Phật luôn phát tâm đại bi đối với tất cả chúng sanh”.
Một người có thể phụ thuộc vào người khác để nhận được sự bảo vệ và hỗ trợ. Cha mẹ che chở con cái, con cái phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già. Thầy trông nom đệ tử, đệ tử phục vụ lại Thầy, và thân quyến hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau. Tuy nhiên, sự giúp đỡ và hỗ trợ đó chỉ là tạm thời. Nhưng sự giúp đỡ và hỗ trợ thực sự, không một ai có thể giúp đỡ chúng ta được. Chẳng hạn, con cái không thể ngăn cản sự già đi của cha mẹ. Cha mẹ cũng chẳng thể đảm bảo là những đứa con của họ không bị già đi. Con cái không thể chia sẽ cùng nhau tuổi già của cha mẹ. Cũng không một ai có thể diệt trừ hoặc làm dịu đi cơn đau bởi bệnh tật hành hạ của bệnh nhân. Dĩ nhiên, các bác sĩ có thể giúp họ giảm bớt sự đau đớn ở một mức độ nào đó, nhưng có nhiều bệnh họ không thể làm gì được. Các bác sĩ không thể ngăn chặn cái chết sắp diễn ra. Thậm chí họ hàng hay bạn bè thân thiết của người sắp chết cũng không thể ngăn chặn cái chết của họ. Tất cả những gì họ có thể làm là đứng nhìn với lòng trắc ẩn. Mọi người đều sẽ chết như vậy. Không một ai có được sự bảo vệ hay hỗ trợ nào để vượt khỏi cái già, bệnh và chết. Không ai có thể cứu một người rơi vào cảnh giới đau khổ bởi nghiệp ác mà họ đã tạo.
Chỉ có Đức Phật mới có thể cứu độ chúng sanh thoát khỏi những phiền não này, bằng cách hướng dẫn họ đi theo con đường đúng đắn thông qua lời dạy của Ngài và khiến họ thực hành theo Giáo pháp. Đây cũng là cách một người thầy thuốc đối xử với bệnh nhân – bằng cách kê đơn thuốc phù hợp và kiêng cử một số loại thức ăn, cũng như tránh các hoạt động thể chất có hại. Không có một phép màu nào giúp một người bệnh trở nên khỏe mạnh bằng lời chúc: “Mong cho bạn được khỏi bệnh”. Nếu người bệnh không tuân thủ theo chỉ định của thầy thuốc thì bệnh sẽ không bao giờ khỏi. Cũng vậy, Đức Phật chỉ ra con đường chơn chánh và hướng dẫn rõ ràng. Những ai thực hành theo lời chỉ dẫn của ngài có thể tự cứu mình khỏi già, bệnh, chết và giải thoát khỏi luân hồi.
Phải trong nhiều kiếp (kappa) mới có một vị Phật xuất hiện, và mỗi vị Phật chỉ sống trong một thời gian giới hạn tùy theo tuổi thọ bình thường trong thời đại đó. Vì vậy, được nghe những bài thuyết pháp của Đức Phật là một cơ hội cực kỳ hiếm có. Mặc dầu Đức Phật không còn tại thế, nhưng chúng ta vẫn có thể nghe những bài Pháp của Ngài được thuyết giảng bởi những vị giảng sư uyên bác. Rồi chúng ta có thể thực hành theo lời hướng dẫn đó, để tự cứu mình ra khỏi khổ đau của vòng luân hồi triền miên. Tuy nhiên, những cơ hội như vậy không phải thời nào cũng có. Hơn nữa, trên thế gian có rất nhiều tà kiến nên người ta có thể sẽ đi theo những con đường ấy. Đây là điều cực kỳ nguy hiểm, vì khi đó, người ta sẽ phấn đấu cho những mục tiêu sai lầm. Lúc ấy, họ sẽ ngày càng lún sâu vào vòng xoáy của sự hiện hữu. Bất kể chúng sanh ấy là ai, họ theo đức tin nào, điều đó không quan trọng, Đức Phật đều có lòng thương xót đên những chúng sanh ấy. Lòng bi mẫn của Ngài thậm chí còn rộng lớn hơn khi nhận ra rằng, có rất nhiều chúng sanh ở các cõi khác nhau đang đi theo tà đạo.
Có Tà Kiến Là Điều Bi Thảm Nhất
Một người có tà kiến (niềm tin sai lầm) thực sự rất đáng thương. Bởi vì, dầu người ấy đang tìm kiếm con đường dẫn đến hạnh phúc và an lạc, nhưng càng đi, càng cố gắng thì càng dẫn đến nghịch. Những ai theo Giáo Pháp của Đức Phật không nên tự mãn, vì nghĩ rằng mình đã tìm được con đường đúng đắn. Người ấy nên nỗ lực để đạt được tối thiểu giai đoạn giải thoát đầu tiên, chỉ khi đó, họ mới chắc chắn được thoát ra khỏi nghịch cảnh. Bởi vì trong kiếp sau, họ có thể tái sanh vào những gia đình có đức tin khác, khi đó, họ có thể rơi vào tà đạo (con đường sai lầm). Chính vì vậy, Đức Phật luôn có lòng từ bi đối với tất cả chúng sanh, bởi lẽ không có ai giúp họ thoát khỏi sự khởi đầu của chuỗi già, bệnh, chết, hay thoát khỏi địa ngục và những tà kiến. Lòng bi mẫn của Ngài đối với tất cả chúng sinh bình đẳng và không có sự phân biệt.
Cuộc Đối Thoại Của Vua Korabya và Tôn giả Raṭṭhapāla
Ở trên đời này, các vị Vua đều có đội quân đông đảo để tự bảo vệ mình, và có thể nói rằng, trong các công việc thế tục thì họ tự trông cậy vào chính mình. Tuy nhiên những vị Vua ấy cũng phải già đi theo thời gian, và không có một đội quân nào có thể bảo vệ họ khỏi tuổi già, bệnh tật và cái chết khi chúng xuất hiện. Tôn giả Raṭṭhapāla là một vị A-la-hán vào thời Đức Phật. Tôn giả là con trai của một người giàu có và cũng là bạn của Vua Korabya. Một ngày nọ, Đức Vua hỏi tôn giả Raṭṭhapāla tại sao Ngài lại xuất gia.
Tôn giả Raṭṭhapāla trả lời rằng, Ngài đã xuất gia sau khi nghe bài pháp của Đức Phật liên quan đến sự bất lực của tất cả chúng sanh trước những đau khổ của tuổi già, bệnh tật và cái chết.
Đức Vua không hiểu sự bất lực ấy có nghĩa là gì, nên nói rằng mình có một đội quân đông đảo để bảo vệ khỏi những điều hiểm nguy.
Khi ấy, Tôn giả Raṭṭhapāla nói: “Tâu đại vương, ngài có bao giờ bị bệnh nặng không?” Đức Vua trả lời: “Thưa tôn giả, có.”
Sau đó, Tôn giả Raṭṭhapāla hỏi liệu Đức Vua có thể cầu xin thân quyến chia sẻ nỗi đau do căn bệnh ấy gây ra và họ có thể chữa lành căn bệnh ấy được chăng?
Đức Vua trả lời: “Điều đó không thể được. Tôi phải chịu đựng cơn đau ấy một mình”.
Rồi Tôn giả Raṭṭhapāla nói: “Đây chính là điều Đức Phật muốn nói khi Ngài dạy rằng, chúng sanh không thể nương tựa vào người khác để được sự bảo vệ và giúp đỡ”4Majjhimanikāya Vol. ii. 66ff, Raṭṭhapāla Sutta..
Vì vậy, ngay cả khi một người nhận được nhiều sự giúp đỡ và bảo vệ khỏi mọi hiểm nguy trong đời sống thế tục, họ vẫn phải bất lực trước tuổi già, bệnh tật và cái chết. Kinh điển nói rằng, không có một tài sản nào là của riêng mình, bởi vì người ta phải bỏ lại hết tất cả mọi thứ sau khi chết và tái sanh vào một kiếp sống mới. Đức Phật đã nhận ra sự thật này, vì vậy, lòng bi mẫn của Ngài đối với các chúng sanh thật rộng lớn. Nói một cách khác, Ngài khởi sanh lòng bi mẫn trong tâm.
Con người có những loại tài sản mà họ coi đó là tài sản cá nhân, như: vàng, bạc, thực phẩm, gia súc, xe cộ, v.v…, nhưng khi chết đi họ phải để lại hết tất cả những thứ ấy, kể cả cái thân này. Cái chết có thể đến với bất kỳ ai trong hôm nay hoặc ngày mai, vì vậy, chúng ta không thể nói cái chết còn ở rất xa. Ngay cả khi chúng ta còn sống, những tài sản thế tục này có thể bị người khác dùng vũ lực để tước đoạt, nên chúng không thực sự là tài sản của cá nhân ta.
Tài sản thực sự của một người là thiện nghiệp (công đức), như: bố thí, trì giới và thực hành thiền. Những thứ này không thể bị lấy đi, dù có bị trộm cắp hay áp chế bằng vũ lực, các thiện nghiệp ấy được tích lũy từ kiếp này sang kiếp khác. Những cá nhân nào tạo nhiều thiện nghiệp sẽ nhận được quả báo là hạnh phúc trong những kiếp tương lai. Do đó, tích lũy công đức bằng cách bố thí (dāna), giữ giới và hành thiền (bhāvanā) để trau dồi trí tuệ là điều rất cần thiết. Hai điều cuối cùng là quan trọng nhất. Thiện tín nên cố gắng thực hiện những điều này mỗi ngày, vì nó rất có giá trị mà không cần phải tốn bất kỳ chi phí nào.
Những người đã làm nhiều công đức, họ có một chỗ để nương tựa vào lúc chết. Trước cửa tử, họ có thể “ra đi” bằng cách thực hành thiền cho đến hơi thở cuối cùng, chính vì vậy họ được tái sanh lên thiên giới. Các thiện tín hãy siêng năng làm ba công đức này, là: bố thí, trì giới và tham thiền.
Tài sản thế tục không phải là của riêng chúng ta, vì chúng ta phải để lại hết tất cả cho những người còn sống sau khi qua đời. Nếu chúng ta dính mắc vào chúng, chúng ta có thể sẽ tái sanh làm loài ngạ quỷ, hoặc một chúng sanh nào đó ở trong đọa xứ để phải chịu đau khổ cùng cực. Đức Phật thấy được sự bất lực này nên Ngài khởi lên tâm từ bi vô lượng đến tất cả chúng sanh.
Đức Phật cũng thấy rằng chúng sanh bị tham dục tấn công và làm nô lệ cho chúng. Cũng vì lý do này, mà lòng bi mẫn của Đức Phật bao trùm hết tất cả chúng sanh. Ngài nhận thấy tất cả chúng sanh đều bị tham ái (taṇhā) bám lấy; họ khao khát những đối tượng làm thỏa mãn sáu giác quan (sáu căn) của mình; họ không hài lòng với tuổi thọ và danh tiếng mà mình đang có; họ không hài lòng với những điều tốt đẹp mà cuộc sống (tức là thiện nghiệp) mang đến cho họ. Những mong muốn trên mọi phương diện cuộc sống của họ càng ngày càng tăng lên, vì vậy, họ không bao giờ thỏa mãn cả. Ở một số nước, có những triệu phú, số tiền họ có còn nhiều hơn mức tiền mà họ chi tiêu. Tuy nhiên, họ không bao giờ thỏa mãn những gì mình đang có. Các vị Vua chưa bao giờ ngừng kế hoạch mở rộng bờ cõi; họ luôn muốn có nhiều nước chư hầu hơn (tức là các quốc gia nhỏ nằm dưới sự thống trị của họ).
Đến cả chư thiên, thậm chí vẫn còn tham muốn mãnh liệt. Những vị chư Thiên có oai lực thường có năm trăm hay một ngàn tiên nữ trong hậu cung của họ, nhưng đối với họ không bao giờ là đủ. Họ tận hưởng tất cả những dục lạc trên thiên giới, nhưng họ lại mong muốn nhiều hơn nữa. Vì vậy, Thiên Chủ Sakka đã ví họ như những con ngạ quỷ luôn đói khát, vì bị thiếu thức ăn. Đức Phật đã thấy tất cả chúng sanh đều làm nô lệ cho tham ái, nên Ngài phát đại bi tâm tới tất cả chúng sanh.
Đúng vậy, chúng sinh là nô lệ của tham dục. Tham dục thôi thúc họ tìm kiếm những thứ họ muốn và tất nhiên họ sẽ liều mạng để có được chúng. Họ phải làm việc hàng ngày, trong suốt cuộc đời chỉ để phục vụ cho cái tham của mình. Trong kiếp sau, họ vẫn là nô lệ của người chủ cũ (tham ái). Họ không có thời gian để nghỉ ngơi.
Nô lệ trong thế gian, cùng lắm chỉ có thể làm nô lệ trong một kiếp, nhưng nô lệ của tham ái sẽ phải phục tùng chúng trong một thời gian dài vô tận cho đến khi đạt được quả vị A-la-hán – nhờ đó, họ thoát ra khỏi luân hồi. Vô minh (avijjā) che dấu bản chất thực sự của cuộc sống, và tham ái khiến cuộc sống trở nên thú vị hơn, thúc giục chúng sanh sở hữu chúng. Họ phấn đấu cả đời nhưng không bao giờ hài lòng với những gì mình có. Vì họ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn nên họ luôn cảm thấy thất vọng. Biết được điều này, Đức Phật phát từ bi tâm đối với chúng sanh trong các cõi giới.
“Chúng sanh không biết đủ, nên trở thành nô lệ cho tham ái”.
“Con người bị đẩy đến già, bệnh, chết”.
“Chúng sanh thật yếu ớt và bất lực”.
“Chúng sanh không có bất kỳ tài sản cá nhân nào là thực sự, bởi vì, bất cứ thứ gì họ có đều phải bỏ lại”.
Đây là bốn điểm trong cuộc đối thoại giữa Tôn giả Raṭṭhapāla và Vua Korabya. Tôn giả nói rằng, những tình cảnh đáng thương này của các chúng sanh đều được Đức Phật nhìn thấy, vì vậy mà Ngài có đại bi tâm với tất cả chúng sanh, đồng thời, Ngài thấy rằng, ngoài Ngài ra, không một ai có thể giúp đỡ họ được.
Vì thế Dạ-xoa Sātāgiri đã nói rằng tâm đại bi của Đức Phật không hề có sự thiên vị hay phân biệt nào. Dạ-xoa Sātāgiri tiếp tục: “Hơn nữa, vị Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật có tâm bất động, không lay chuyển giữa cảm giác thích hay ghét”. “Đức Phật có bị chi phối trước những cảm giác thích hay ghét không? Đức Phật không giống như những chúng sanh bình thường luôn bị các cảm giác làm cho giao động”. Đó là câu trả lời cho câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata, một câu hỏi thích hợp và một câu trả lời thích hợp.
Bây giờ, nếu có người mời một người bạn không theo bất kỳ tôn giáo nào đến nghe buổi thuyết Pháp của vị Đạo Sư đáng kính của người ấy, người bạn ấy có thể vặn lại rằng: “Vị thầy của bạn có thể làm gì? Ông ấy có tinh thông thiên văn không, việc ông ấy tụng kinh có giúp tôi trở nên sung túc hơn không? Liệu ông ấy có thể hòa giải cho một đôi vợ chồng ly thân hay lấy lại tài sản đã mất không? Ông ấy có giúp tôi thăng chức được không?”
Những câu hỏi như vậy nghe khá xấc xược. Đây không chỉ là một thí dụ giả định; Sư đã nghe nói về một số trường hợp như thế này. Những câu hỏi như thế này chỉ được đặt ra bởi những người thiếu hiểu biết và bất kính.
Câu Hỏi Sắc Bén
Câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata trong bối cảnh này là thích hợp và sắc bén nhất. Vào thời Đức Phật, có nhiều người tự xưng là Phật. Nổi bật trong số đó là Purāṇa Kassapa, Makkhali Gosāla, Ajita Kesakambalī, Pakudha Kaccāyana, Nigaṇṭha Nāṭaputta, và Sañcaya Belaṭṭhaputta. Sáu vị này đều có những môn đồ riêng, họ tin vào bói toán, nên đồ chúng của họ rất đông.
Tuy nhiên, Dạ-xoa Hemavata biết rằng những ai được gọi là bậc Đại Đạo Sư thì những vị ấy đều có tâm xả trước những điều dễ chịu hay khó chịu. Dạ-xoa ấy muốn biết liệu vị thầy của bạn mình có thực sự an tịnh hay không, nên hỏi rằng: “Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, liệu Đức Phật của bạn có thể thu thúc tâm của Ngài không? Và có tâm xả trước những điều dễ chịu hay khó chịu không?”
Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời chính xác cho Dạ-xoa Hemavata, Đức Phật nhìn những đối tượng này với chánh niệm và không bị cảm giác dễ chịu hay khó chịu quấy nhiễu. Dù đối tượng có đáng hài lòng đến đâu, Đức Phật cũng thấy chúng nhờm gớm. Ngài nhìn một nữ nhân xinh đẹp như Māgaṇḍiyā và Ngài thấy rằng thân hình nữ nhân ấy được cấu thành từ 32 thể trược, do đó, Ngài không còn bị chúng ảnh hưởng. Cũng vậy, khi nhìn thấy ba cô con gái xinh đẹp của Ma-vương (Māra), Đức Phật chỉ thấy họ là sự tập hợp của các đối tượng đáng nhờm gớm.
Không chỉ với Đức Phật mà tất cả các vị Thánh A-la-hán đều nhìn nhận các đối tượng như vậy, tâm của các vị ấy luôn có sự thu thúc. Ngay cả với những ai chưa phải là Bậc thánh A-la-hán, họ có thể nhìn các đối tượng trong hiện tại một cách tương tư như vậy, nếu họ thực hành đề mục thiền bất tịnh (asubha-kammaṭṭhāna). Một lần nọ, ở Sri Lanka, đại trưởng lão Mahātissa ở núi Cetiya nhìn một nữ nhân đang cười trong khi đi khất thực và Ngài thấy sự nhờm gớm của các đối tượng vật chất. Vì vậy, Ngài đã thực hành thiền về các đối tượng đáng nhờm gớm ấy và cuối cùng chứng đạt đạo quả A-la-hán. Những thiền sinh đã đạt đến giai đoạn của tuệ diệt (bhaṅga-ñāṇa), họ có thể nhìn sự vật theo đúng bản chất của chúng (nhìn sự vật như chúng đang là), tức là các đối tượng ấy liên tục bị diệt đi, bị phân chia ra, nên chúng thật sự đáng nhờm gớm.
Lòng Bi Mẫn Của Đức Phật
Đức Phật dùng lòng bi mẫn để giúp các chúng sanh “cải tà quy chánh”, tức là bỏ ác làm lành. Ngài nhìn chúng sanh với lòng bi mẫn như đối với con trai của Ngài là Tôn giả Rāhula. Đức Phật đối xử với Devadatta (người đã cố tình lăng đá từ đỉnh núi Linh Thứu xuống để giết Ngài ) cũng giống như Ngài đối xử với Rāhula. Vì vậy, Ngài không bị các cảm giác dễ chịu hay khó chịu ảnh hưởng.
Vì Đức Phật không bị ảnh hưởng bởi các đối tượng dễ chịu hay khó chịu, nên Ngài đã sử dụng tấm vải được nhặt từ vải quấn tử thi của nữ nô lệ Puṇṇā mà không cảm thấy chút gì nhờm gớm; thậm chí tới chiếc bánh được dâng lên từ nếp váy của Hoàng Hậu Mallikā hay bữa ăn còn sót lại của Bà-la-môn Pañcaggadāyaka.
Tôn Giả Mahākassapa Và Người Bị Cùi
Đại trưởng lão Mahā-Kassapa cũng thoát khỏi cảm giác nhờm gớm. Một lần nọ, Tôn giả Mahā-Kassapa đứng nhận đồ ăn khất thực tại chỗ một người cùi đang dùng bữa. Ngài làm như vậy tế độ người cùi có được công đức, công đức này sẽ mang lại cho người ấy nhiều hạnh phúc trong kiếp sau. Người cùi ấy đã phát sanh tâm bố thí nên đặt phần thức ăn còn lại vào bát của Ngài trưởng lão. Trong khi đặt bát, người cùi ấy làm rơi ngón tay của mình vào trong bát. Ngài trưởng lão đã thọ dụng thức ăn ấy mà không có cảm giác nhờm gớm.
Điều này minh họa một điều là bản chất của dễ chịu hay khó chịu không có sự khác biệt về các yếu tố tạo nên nó. Tất cả các vị thánh A-la-hán đều nhìn bản chất sự việc theo cách này và Đức Phật cũng vậy.
Đức Phật cũng biết cảm giác khó chịu, nhưng ngài không bám chấp lấy nó. Điều quan trọng là phải buông bỏ những đau khổ nơi thân mình. Đức Phật cũng có cảm giác đau khi bị mảnh đá Devadatta lăn từ trên núi xuống rơi vào chân, nhưng Ngài không có sự chú ý đến cơn đau. Hơn nữa, trong những năm cuối đời, Đức Phật bị mắc phải một cơn bệnh nặng, nhưng Ngài vẫn giữ tâm bình thản khi đối mặt với căn bệnh ấy. Không chỉ có Đức Phật mà các vị A-la-hán cũng có thể đón nhận sự khó chịu hay dễ chịu với tâm xả.
Thiền sinh đã đạt đến giai đoạn Hành Xả Trí (saṅkhārupekkhā-ñāṇa) có thể vượt qua cảm giác khó chịu hay dễ chịu bằng cách ghi nhận cảm giác ấy, rồi loại bỏ nó ngay lập tức. Những thiền sinh có thể làm được như vậy, có thể xem là đã tạm thời đạt được ít nhiều một phần đức tánh của một vị Thánh A-la-hán. Những thiền sinh nào đã đạt tới giai đoạn này nên được khuyến khích như vậy.
Có ba loại Tà tư duy (micchā-saṅkappa):
1. Tư duy trong các dục (kāma-saṅkappa),
2. Tư duy trong sân hận (byāpāda-saṅkappa),
3. Tư duy trong ác ý (vihiṃsa-saṅkappa).
Ba ác tư duy này phải được loại bỏ khỏi tâm. Chánh tư duy (sammā-saṅkappa) cũng có ba loại:
1. Tư duy để đoạn trừ các dục (nekkhamma-saṅkappa),
2. Tư duy với lòng từ ái (abyāpāda-saṅkappa),
3. Tư duy không có ác ý (avihiṃsa-saṅkappa).
Đây là ba thiện tư duy cần phải được trau dồi.
Những người thế gian mong muốn những điều dễ chịu và diệt trừ những điều khó chịu. Tuy nhiên, những ý nghĩ bất thiện như vậy lại không có trong tâm Đức Phật. Tâm Ngài tràn ngập những ý nghĩ thiện lành. Ngài không mong cầu những điều dễ chịu và cũng không có ác cảm với những điều khó chịu. Duy nhất chỉ có những ý nghĩ xuất phát từ lòng tư bi vô hạn của Ngài đối tất cả chúng sanh dù là tốt hay xấu. Tâm ngài luôn thanh tịnh và luôn được thu thúc (kiểm soát).
Vì thế Dạ-xoa Sātāgiri nói: “Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài luôn luôn thu thúc tâm mình đối với các đối tượng tốt đẹp hay nhờm gớm.”
Đức Phật thật đáng kính. Ngài không phân biệt giữa những người có lòng tôn kính sâu sắc đối với Ngài và những người chống đối lại Ngài. Lòng từ ái và bi mẫn của Ngài đối với tất cả chúng sinh là bao quát hết cả thảy.
Đức Phật Có Trộm Cắp Không?
Câu trả lời cho câu hỏi đầu tiên đã giúp cho Dạ-xoa Hemavata có đầy đủ bằng chứng để thuyết phục rằng Đức Phật mà Dạ-xoa Sātāgiri nhắc tới là Bậc chơn chánh. Nhưng để chắc hơn, Dạ-xoa Hemavata hỏi câu thứ hai rằng:
“Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, thầy của bạn có trộm cắp tài sản của người khác bằng thân hay bằng lời nói không? Vị ấy không có trộm cắp sao?”
Đức Phật Là Bậc Đã Diệt Trừ Được Trộm Cắp
Lấy bất cứ thứ gì mà không được chủ nhân cho là trộm cắp. Trộm cắp bao gồm lấy lén lút hoặc bằng vũ lực. Câu hỏi này có vẻ là một câu hỏi xấc xược đối với các Phật tử. Liệu một vị như Đức Phật có bao giờ trộm cắp hay dùng vũ lực để chiếm lấy một vật gì đó một cách thô lỗ không? Nếu câu hỏi tương tự như vậy được hỏi bất kỳ vị Sư nào đều xem là điều xấc xược. “Thầy của Sư có còn trộm cắp không?” Đó thực sự là một câu hỏi xấc xược. Tuy nhiên, vào lúc đó, một câu hỏi như vậy là phù hợp và không xấc xược. Lúc đó, mọi người nóng lòng tìm kiếm một vị Phật chơn chánh nên xuất hiện nhiều vị mang mác gọi là Phật xuất hiện.
Những kẻ giả mạo nổi bật như Purāṇa Kassapa và năm vị khác đã tuyên bố rằng họ là Phật. Nhiều người theo họ tôn thờ và quy y họ, với niềm tin rằng, họ là những vị Phật chơn chánh. Tuy nhiên, những vị Phật giả mạo này đã thuyết giảng những bài Pháp bác bỏ những khái niệm về việc làm thiện lẫn bất thiện.
Dạ-xoa Sātāgiri và Dạ-xoa Hemavata đã là những Dạ-xoa xuất hiện sau thời kỳ của Đức Phật Kassapa cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Trong một thời gian dài như vậy, hai vị Dạ-xoa này đã biết đến những kẻ giả mạo gọi là Phật trong khi mọi người đang nóng lòng chờ đợi một vị Phật thực sự xuất hiện. Ví như những kẻ giả mạo đòi ngồi lên ngai vàng trong khi cả thần dân trong quốc độ ấy chờ đợi một vị Vua thực sự xuất hiện vậy. Dạ-xoa Hemavata biết rằng các vị Phật giả vẫn còn trộm cắp, nên Dạ-xoa ấy mới đặt câu hỏi như vậy. Vị ấy cũng muốn kiểm tra đạo sư của Dạ-xoa Sātāgiri về những hành động sái quấy này.
Chúng ta có thể lấy ví dụ về những người thờ phượng các vị Thần như vầy. Theo giáo lý của họ, Thần của họ dường như không thoát khỏi những hành động bất thiện. Những vị Thần của họ có thể trừng phạt một số người bằng cái chết hay hủy hoại tài sản của họ, và những hành động như vậy, Phật giáo coi đó là những hành động bất thiện. Vì vậy, câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata không hề xấc xược; nó phù hợp với tình hình lúc đó.
Đức Phật có diệt trừ hết sự hối hận và dã dượi, uể oải không?
Sau đó, Dạ-xoa Hemavata hỏi: “Đức Phật của bạn có diệt trừ được sự hối hận và dã dượi, uể oải không?”
Dã dượi, uể oải là một loại phóng dật. Khi bị ái dục lấn át, một người có xu hướng phạm vào tội tà dâm, một hành động bất thiện. Tà dâm là một hành động đê hèn, đó là một hành động bất thiện. Phóng dật (pamāda) trong kinh điển Pāḷi có gốc là vô đạo đức (phạm giới).
Lời nói thô lỗ của Ngoại Đạo Kassapa
Khoảng 50 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, một ngoại đạo tên là Kassapa đến gặp Tôn giả Bākula. Purāṇa Kassapa này không phải là kẻ giả danh Phật. Ông ấy là Đạo Sĩ Lõa Thể của Nigaṇṭha Nāṭaputta, ngày nay giáo Phái này gọi là đạo Kỳ-na-giáo (Jains).
Khi Sư đến thăm Vườn Migadavana ở Ấn Độ, Sư thấy một ngôi đền của đạo Jain. Trong ngôi đền đó có treo ảnh các tu sĩ của họ, được gọi là Muni. Muni có nghĩa là vị Ẩn Sĩ trong Phật giáo. Các vị Tỳ-khưu trong Phật giáo mặc toàn bộ y màu vàng, nhưng các vị Tỳ-khưu của họ thì ở trong tình trạng lõa thể. Sư thấy có nhiều vị Ẩn Sĩ trần trụi như vậy dọc theo bờ sông Hằng.
Kassapa là bạn của Tôn giả Bākula (bậc A-la-hán) khi ngài còn là cư sĩ. Kassapa hỏi Tôn giả Bākula rằng, “Này bạn, bạn đã ở trong giáo pháp của Đức Phật được bao lâu rồi?”
Tôn giả Bākula trả lời: “80 năm.”
Kassapa hỏi tiếp: “Trong khoảng thời gian đó, bạn có thường hành dâm không?”
Rõ ràng, đây là một câu hỏi xấc xược. Khi ấy, Tôn giả Bākula nói: “Này bạn Kassapa, bạn nên hỏi, ‘Bạn có thường xuyên nghĩ đến sự hành dâm không?’ Đó là một câu hỏi rất lịch sự.”
Kassapa đã chỉnh lại cách diễn đạt câu hỏi của mình cho phù hợp. Khi ấy Tôn giả Bākula trả lời:
“Tôi đắc Đạo Quả A-la-hán vào ngày thứ tám sau khi xuất gia, điều này có nghĩa là tôi đã thoát khỏi mọi sự tham muốn trong dục lạc. Vì vậy, tôi không còn suy nghĩ trong sự hành dâm kể từ khi xuất gia, tám mươi năm nay, chưa một lần nào tôi nghĩ đến chúng.”
Câu trả lời này làm Kassapa rất ngạc nhiên, ngay sau đó, vị ấy đã quy y giáo pháp của Đức Phật. Sau khi thực hành thiền, vị ấy đã chứng đắc Đạo Quả A-la-hán. Dạ-xoa Hemavata hỏi vậy không phải vì không biết gì về giáo lý của Đức Phật, vì vị ấy có nhắc tới “sự phóng dật” hay “dã dượi, uể oải”. Vị ấy chỉ muốn hỏi xem Thầy của Dạ-xoa Sātāgiri có thoát khỏi tham dục không.
Đức Phật không bao giờ bỏ Thiền (jhāna)
Dạ-xoa Hemavata hỏi liệu Đạo Sư của Dạ-xoa Sātāgiri là Đức Phật, có bao giờ lơ là với Thiền (jhāna) không? Hay nói cách khác, liệu Ngài có đầy đủ tỉnh giác để loại trừ tham dục, vốn là một trở ngại cho Đạo, Quả A-la-hán không? Đắm chìm trong tham dục là một trở ngại. Nếu ai thoát khỏi những điều đó, họ đã đến giai đoạn đầu tiên của Thiền (jhāna). Câu hỏi này sanh khởi do bởi phần trước đặt vấn đề về sự dã dượi, uể oải. Vì vậy, Dạ-xoa Hemavata đặt ra những câu hỏi liên quan đến những hành động sai trái về thân, cụ thể là: sát sanh, trộm cắp và tà dâm. Sau đó, vị ấy hỏi về Thiền (jhāna).
Đức Phật Không Có Trộm Cắp
“Này bạn Hemavata, bậc Đạo Sư của chúng ta không có trộm cắp. Ngài không trộm cắp như những kẻ giả mạo.” Tại sao, Dạ-xoa Sātāgiri lại chắc chắn như vậy? Bởi vì, Đức Phật đã nói trong bài kinh Dhammacakka rằng, ngài đã tìm thấy con đường trung đạo và làm sung mãn các chi phần của Đạo. Tám chi phần này bao gồm có chánh nghiệp, tức là tránh xa sự sát sanh, trộm cắp và hành dâm. Sự tránh xa các hành động như vậy gọi là thu thúc (virati).
Thu thúc có ba loại: thu thúc những hành động nhờ có Giới (sampatta-virati), thu thúc những hành động bất thiện sau khi chính thức thọ giới (samādāna-virati), và tránh xa mãi mãi bằng cách cắt đứt các phiền não (samuccheda-virati).
Dạ-xoa Sātāgiri biết rằng Đức Phật không có những hành động bất thiện về thân, vì Ngài đã tuyên bố viên mãn về Thánh Đạo, bao gồm việc tránh xa tất cả mọi hành động bất thiện về thân. Vì vậy, Dạ-xoa nói rằng “Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, không hề trộm cắp.”
Các Vị Phật Giả
Sư sẽ giải thích thêm về việc trộm cắp. Các vị Phật giả tự nhận mình là Phật từ rất lâu trước khi Đức Phật thật giác ngộ. Một trong số sáu vị Phật giả, Purāṇa Kassapa nói rằng sát sanh, trộm cắp không phải là hành động bất thiện, và việc bố thí hay các việc làm tốt khác không phải là hành động thiện.
Một vị Phật giả khác, Makkhali Gosāla, nói rằng không có nguyên nhân của hạnh phúc cũng như đau khổ, tất cả đều đều là số phận định đoạt. Dù làm ác đến đâu cũng không chịu đau khổ, cũng như không có bất kỳ công đức hay phước thiện nào khi làm thiện. Luân hồi không tồn tại, tất cả chúng sanh sẽ được giải thoát khi đến lượt của họ.
Pakudha Kaccāyana, vị Đạo Sư ngoại đạo lại nói rằng, tất cả chúng sanh đều được cấu tạo từ tứ đại (đất, nước, lửa, gió) cùng với đau khổ, hạnh phúc, và sanh mạng. Vì vậy, nếu chém chúng sanh ấy bằng một thanh kiếm thì thanh kiếm sẽ cắt vào bảy chi phần này mà không ảnh hưởng đến chúng sanh đó.
Ajita Kesakambala, một vị Phật giả khác, cho rằng không có kiếp sau (tức là chỉ sống một lần trên đời), do đó dù thiện hay ác cũng không có ảnh hưởng gì.
Từ những lời dạy của các vị Phật giả này, chúng ta có thể thấy rằng họ khuyến khích làm những hành động bất thiện – dường như họ đang thúc giục mọi người sát sanh và trộm cắp.
Không Ai Muốn Bị Giết Hoặc Bị Cướp
Tất cả mọi chúng sanh đều muốn sống lâu, không muốn bị sát hại hay bị cướp mất tài sản mà mình khó khăn kiếm được. Do đó, chúng ta không nên sát hại bất kỳ sanh vật nào. Không nên thực hiện các nghi lễ hiến tế bằng cách giết hại chúng sanh với tà kiến cho rằng những việc làm như vậy là có công đức. Cũng vậy, không nên ăn cắp tài sản của bất kỳ ai, dù là trộm cắp cho mình hay cho người khác.
Tuy nhiên, vào thời đó, những vị đạo sư ngoại đạo vẫn cho rằng giết chóc và trộm cắp không phải là những việc làm bất thiện. Họ nói như vậy thì bản thân họ cũng không thoát khỏi những hành động bất thiện đó. Còn Đức Phật thật, Ngài tuyên bố những việc làm như thế là bất thiện. Bản thân ngài tránh xa những việc làm đó và khuyến khích người khác cũng tránh xa. Đây là lý do Dạ-xoa Hemavata đặt câu hỏi về sự trộm cắp, và Dạ-xoa Sātāgiri đã nhanh chóng đáp rằng Đức Phật không có trộm cắp hay làm những việc bất thiện, vì ngài đã toàn hảo về giới hạnh.
Thu Thúc Trộm Cắp
Nếu một người không có những hành động đúng đắn, người đó hoàn toàn không đán tin cậy, mặc dầu người đó có thể nói rằng mình tránh xa việc trộm cắp. Người ta có thể trộm cắp khi có cơ hội hoặc khi không cưỡng lại được sự cám dỗ. Thí dụ, vào thời điểm Anh Quốc rút quân khỏi Myanmar, ngay trước khi quân Nhật tới, hầu hết dân chúng trong thị trấn đã bỏ chạy, họ để lại tài sản của mình. Rồi những người dân quê tràn vào thị trấn để cướp bóc. Có người nói rằng, thật buồn cười khi nhìn thấy những chiếc tủ quá khổ so với những căn nhà mà những kẻ trộm cắp này sống. Những người này thường tuân thủ năm giới, nhưng khi chúng có cơ hội trộm cắp mà không bị trừng phạt, thì họ sẽ phá hoại năm giới của mình. Bởi vì họ không có thu thúc bằng sự cắt đứt phiền não, tức là tránh xa các hành động bất thiện bằng Thánh Đạo. Đức Phật là bậc toàn hảo về chánh nghiệp, nên ngài đã xa lìa các hành động bất thiện như trộm cắp hay sát sanh.
Trộm Cắp Là Không Có Lòng Trắc Ẩn
Người trộm cắp là người không có sự đồng cảm như người có Giới. Không ai thích tài sản của mình bị trộm cắp, vì vậy chúng ta không nên trộm cắp của người khác. Một người có Giới sẽ có lòng trắc ẩn với người khác, họ không muốn trộm cắp ngay cả khi chưa thọ Giới. Sự tránh xa này được gọi là có được sự thu thúc (sampatta-virati). Còn sự tránh xa sau khi được thọ giới gọi là thực hành thu thúc (samādāna-virati).
Nói về trộm cắp, một ngoại đạo Nigantha (Jain) cho rằng: “Tài sản chỉ là bề ngoài, chỉ có sát sanh mới gọi là trộm cắp tài sản thực sự.” Đây là một lý luận có phần gượng ép. Trộm cắp cũng giống như giết người, vì người ta phải sống nhờ vào tài sản. Một người có được tài sản bằng cách tiết kiệm và siêng năng làm việc, vì vậy, tài sản chính là một phần cuộc sống của họ. Có một số người chết vì sự đau khổ do bởi mất đi tài sản. Đó là lý do tại sao, vị ngoại đạo Nigantha nói rằng tài sản chỉ là bề ngoài.
Thu thúc bằng trí tuệ
Một người chưa thoát khỏi lòng tham vẫn có thể thu thúc trộm cắp bằng sự đồng cảm hoặc thọ trì giới luật một cách nghiêm túc. Đối với những thiền sinh ghi nhận sự sanh và diệt của các hiện tượng, thì họ đã tránh xa được sự trộm cắp. Bởi vì đối với họ, mọi hiện tượng đều liên tục sanh rồi diệt. Toàn bộ quá trình nằm ngoài sự kiểm soát của một người, nó gọi là vô ngã (anatta), do đó, sự mong muốn sát hại hoặc trộm cắp sẽ không xảy ra. Các thiền sinh có thể thực hành được sự thu thúc như vậy.
Thu Thúc Bằng Thánh Đạo
Khi thiền sinh đạt tới giai đoạn cao hơn, thiền sinh có thể hiểu được sự chấm dứt của danh (nāma) và sắc (rūpa), nhất là trí tuệ thánh đạo. Ở giai đoạn này, thiền sinh không có tâm tham muốn trộm cắp hay phạm phải bất kỳ hành vi bất thiện nào. Vào lúc đó, các ô nhiễm đã được nhổ tận gốc bằng sự thu thúc của Bậc Thánh. Các ô nhiễm (samuccheda-virati) đã bị diệt trừ hoàn toàn. Ngay cả trong giai đoạn nhập lưu thánh đạo, các vị ấy cũng đã diệt trừ hết các ô nhiễm bất thiện trong năm giới.
Kinh Dhammādāsa nói rằng, một vị thánh Nhập Lưu có sự hiểu biết sâu sắc về những Ân Đức của Phật, nên các vị ấy có lòng tôn kính sâu sắc đối với Ngài. Cũng vậy, các vị ấy cũng có lòng tôn kính sâu sắc đối với Pháp và Tăng. Do đó, bậc thánh Nhập Lưu luôn giữ gìn năm giới trong sạch. Và các vị ấy cũng có được đức tin trọn vẹn vào ân đức Phật, Pháp, Tăng và đã nhập vào dòng thánh nhân.
Các bậc Thánh giữ gìn trọn vẹn năm giới mà không có bất kỳ sự vi phạm nào. Các vị ấy luôn luôn gìn giữ giới hạnh của mình. Các vị giữ giới không phải vì sợ người khác chỉ trích, mà vì muốn giữ tâm mình trong sạch, tâm chỉ thanh tịnh khi giữ gìn trọn vẹn ngũ giới. Các vị thánh nhân không bao giờ phạm giới, dù trong kiếp này hay kiếp vị lai. Các vị ấy có thể không nhớ rằng kiếp trước mình đã chứng ngộ đạo quả nhập lưu, nhưng các vị ấy biết rằng mình phải nghiêm trì năm giới một cách trọn vẹn và không có khiếm khuyết nào.
Đôi khi chúng ta gặp một người chưa bao giờ có những hành động bất thiện nào như, giết người hoặc trộm cắp từ khi còn nhỏ. Mặc dù không được Cha, Mẹ chỉ dạy chi tiết, nhưng những người ấy tự biết điều gì là sai trái và thu thúc, giữ gìn giới trong sạch từ khi còn nhỏ. Có thể những người ấy đã có được trí tuệ đặc biệt trong kiếp trước. Cũng có những trường hợp, dù Cha Mẹ không phải là Phật Tử nhưng họ đã đến đất nước này để hành thiền. Có thể những người như vậy đã thực hành Giáo Pháp của Đức Phật trong những kiếp quá khứ. Đây là những trường hợp đặc biệt, nhưng cần phải được đánh giá theo khả năng học Pháp cũng như thực hành Giáo Pháp của họ.
Một vị thánh nhập lưu đã chính thức bước vào dòng thánh nhân, do đó, các ngài giữ gìn giới rất nghiêm ngặt và nhổ tận gốc mọi hành động phá giới. Mặc dầu các ngài không hoàn toàn thoát khỏi lòng tham và sân hận, nhưng chúng không thúc đẩy một vị thánh nhập lưu vi phạm năm giới cấm. Một vị thánh nhập lưu không nghĩ đến trộm cắp, nếu cần vật gì, vị ấy sẽ mua hoặc nhận từ người bố thí. Đó là hành động tự nhiên của một bậc thánh nhân. Đức Phật đã diệt trừ được mọi hành động bất thiện, nên ngài không còn trộm cắp nữa. Khi ngài thuyết bài Kinh Dhammacakka, Đức Phật tuyên bố rằng, Ngài đã diệt trừ được hết những hành động bất thiện. Đó là lý do mà Dạ-xoa Sātāgiri nói rằng:
“Đức Phật Gotama đã diệt trừ được mọi hành động bất thiện là lấy của không cho (trộm cắp) bằng thân hay bằng lời nói. Tôi nói điều này bằng lòng tin của mình.”
Dạ-xoa Hemavata đặt câu hỏi này vì để chắc chắc rằng, Đức Phật là bậc hoàn toàn thanh tịnh, đã diệt trừ được hành động bất thiện về thân, tức là trộm cắp. Câu trả lời của Dạ-xoa Sātāgiri dứt khoát như vậy.
Sau đó, câu trả lời thứ hai là, “Đức Phật Gotama cũng không có hành động bất thiện như hành hạ các chúng sanh.” Câu trả lời cho câu hỏi này có vẻ không cần thiết, nhưng trong thời điểm có nhiều vị Phật giả xuất hiện, thì đây là một câu hỏi hết sức cần thiết. Mục đích là để phân biệt được Đức Phật giả và Đức Phật thật. Một số người ở thời điểm đó có niềm tin vào Chúa là đấng sáng thế, vị ấy tạo ra các chúng sanh cùng với vạn vật. Trong kinh văn của họ, một đấng sáng thế như vậy có thể sẽ trừng phạt những ai đi ngược lại ý muốn của ngài. Những hình thức trừng phạt này bao gồm việc tạo ra những cơn bão, lũ lụt để giết người, hay gây ra những trận động đất lớn và mất mùa chỉ vì con người đi ngược với ý của Chúa. Như vậy, Chúa của họ không thoát khỏi hành động bất thiện, tức là sự sát sanh. Câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata về những hành động bất thiện, như sát sanh hay trộm cắp đều rất phù hợp với hoàn cảnh lúc ấy.
Bậc Thánh Nhập Lưu Không Sát Hại Người Khác
Một tác giả đã từng viết trong một ấn phẩm rằng, vị thánh Nhập Lưu sẽ không sát hại người khác, nhưng nếu có người đến giết vị ấy, vị thánh Nhập Lưu sẽ tấn công kẻ ấy. Tác giả nói rằng, ông nói như vậy vì đó là kết quả sau khi ông nghiên cứu về bản chất tâm lý con người.
Sư tự hỏi, không biết ông ấy nghiên cứu tâm trí của ai và ông ấy nghiên cứu nó như thế nào? Có lẽ ông ấy nghĩ rằng mình là một bậc thánh Nhập Lưu. Có thể ông ấy nghĩ rằng liệu mình có cho phép người khác giết hại mình không, trong khi mình đang có trong tay vũ khí tự vệ? Vì vậy, ông ấy đã tự trả lời rằng mình sẽ giết kẻ tấn công trước. Từ lý luận riêng của mình, ông ấy đã rút ra được kết luận mà ông nêu ra trong bài viết của mình. Tuy nhiên, nó hoàn toàn trái ngược với kinh điển Phật Giáo.
Người nào còn nghĩ rằng mình nên trả thù kẻ tấn công thì người ấy không phải là vị thánh nhập lưu. Theo lời dạy của Đức Phật, những ai còn nuôi dưỡng tâm như vậy thì họ chỉ là một phàm nhân (puthujjana), không phải là bậc thánh nhập lưu. Một vị thánh Nhập Lưu thực sự, không giết hại đến một con bọ chứ đừng nói gì đến một con người. Đây là điều cần phải được hiểu và ghi nhớ lấy.
Đức Phật là bậc đã hoàn toàn tránh xa những hành bất thiện như vậy. Do đó, Dạ-xoa Sātāgiri trả lời một cách dứt khoát rằng: “Tôi tuyên bố với lòng tin vững chắc rằng, bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, không bao giờ sát hại hay làm khổ bất kỳ chúng sanh nào.”
Và câu trả lời thứ ba của Dạ-xoa Sātāgiri là: “Bậc đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, không bao giờ phóng dật. Ngài đoàn hoàn toàn diệt trừ được sự phóng dật.”
Sự phóng dật theo nghĩa thế tục rất phổ biến, như là: quên làm một việc gì đó, quên tên một ai đó, v.v… Tuy nhiên, sự phóng dật trong thời điểm đó không giống vậy. Ở đây, phóng dật có nghĩa là chìm đắm trong ngũ dục (năm loại khoái lạc giác quan), để cho tâm đắm chìm trong khoái lạc, quên mình, tiếng Pāḷi gọi là Pamāda.
Sự phóng dật có nghĩa là để cho tâm tự do tận hưởng tất cả các đối tượng giác quan. Ví như thả lỏng sợi dây thừng buộc cổ một con bò, để chúng tự do đi lang thang và gặm cỏ bất cứ nơi nào chúng muốn. Sự phóng dật như vậy đưa tới sự dễ chịu. Say mê nhan sắc của một nữ nhân hay một nam nhân, hay giọng nói dịu dàng, hương thơm, vị ngọt và sự xúc chạm với một đối tượng đưa tới sự dễ chịu. Thậm chí suy nghĩ về những điều tốt đẹp trong cuộc sống mà không hiện hữu trong thực tại, đây cũng là sự tận hưởng dục lạc thuộc về đối tượng giác quan. Sự tưởng tượng hay suy nghĩ như vậy cũng rất dễ chịu.
Người ta dành tất cả quỹ thời gian khi thức để suy nghĩ về dục lạc và lên kế hoạch để tận hưởng chúng. Họ làm vậy không chỉ một ngày, một tháng hay một năm, mà họ làm vậy trong suốt cuộc đời mình. Nếu một người không có thời gian để nghĩ về những thú vui đó, họ sẽ cảm thấy buồn chán. Nếu không có những thú vui dục lạc để nghĩ đến hoặc lên kế hoạch để sở hữu nó, mọi người sẽ không còn muốn sống trên thế giới này. Đắm chìm trong những suy nghĩ và tận hưởng những thú vui dục lạc như vậy là phóng dật. Trong số những thú vui dục lạc đó, nổi bật nhất là thú vui trong việc hành dâm (tình dục). Vì vậy, Dạ-xoa Hemavata đã hỏi người bạn của mình rằng, liệu Đức Phật có thoát khỏi những hành động bất thiện là chìm đắm trong dục lạc không.
Đối với câu hỏi này, Dạ-xoa Sātāgiri đã đưa ra một câu trả lời khẳng định rằng, “Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, đã hoàn toàn diệt trừ được tất cả mọi dục lạc.”
Câu hỏi dường như vô lý lại là một câu hỏi hợp lý. Đức Phật không chỉ hoàn toàn thoát khỏi sự đắm chìm trong sự khoái lạc của hành dâm, mà còn thoát khỏi sự đắm chìm trong hình ảnh, âm thanh, mùi thơm, hương vị hoặc khoái lạc trong sự xúc chạm. Bởi Ngài luôn chú tâm thực hành tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna), và ngài không có sự phóng dật bởi an trú trong Thiền (jhāna).
Có hai loại jhāna: tập trung vào một đối tượng hay thiền chỉ (samatha jhāna), và chánh niệm liên tục về các hiện tượng thân và tâm hay thiền minh sát (vipassanā jhāna). Bằng sự liên tục theo dõi về tiến trình sanh và diệt của các hiện tượng, chúng ta sẽ nhận thức được ba đặc tánh, vô thường, khổ, vô ngã trong các hiện tượng.
Thiền Chỉ (Samatha Jhāna)
Tập trung tâm vào một đối tượng nhất định được gọi là thiền chỉ (samatha jhāna). Thí dụ, một vòng tròn bằng đất sét (pathavī kasiṇa) được sử dụng để tập trung hay định tâm vào nguyên tố đất. Sự tập trung như vậy không dẫn đến sự hiểu biết sâu sắc về sự sanh và diệt của các hiện tượng. Khi tâm định vào một đối tượng, những tư tưởng về tham dục không có cơ hội xâm nhập vào tâm. Bằng cách này, người ta có thể đạt tới bốn giai đoạn của thiền hữu sắc (rūpa jhāna). Sau đó, người ta có thể tiến tới giai đoạn thiền vô sắc (arūpa jhāna). Những trạng thái thiền này không giúp cho thiền sinh có bất kỳ sự hiểu biết nào về đặc tánh vô thường của các uẩn đang hiện hữu. Các thiền chứng này chỉ tốt cho việc chứng đắc được sự định tâm và giữ cho tâm được định tĩnh.
Khi thiền (jhāna) phát triển, sẽ dẫn đến chứng đạt thiên nhãn (dibbacakkhu), thiên nhĩ (dibbasota), tiền kiếp minh hay nhớ các kiếp quá khứ (pubbenivāsa-ñāṇa), tha tâm thông hay với tâm mình biết tâm người khác (cetopariya-ñāṇa).
Người ta có thể thực hành thiền minh sát dựa trên nền tảng của thiền chỉ (samatha jhāna) cho đến khi thành tựu đạo quả, vì vậy không nên coi thường thiền chỉ (samatha jhāna). Nếu một thiền sinh thực hành thiền chánh niệm về hơi thở, hay quán chiếu 32 thể trược, thiền sinh có thể giữ cho tâm được định tĩnh, và chứng đạt thiền (jhāna). Tuy nhiên, nếu thiền sinh không quán sát sự sanh và diệt của các hiện tượng, thì thiền sinh chỉ đạt được sự định tĩnh trong tâm.
Thiền Vipassanā
Quan sát ba đặc tánh (vô thường, khổ, vô ngã) có nghĩa là thiền Vipassanā. Tuy nhiên, một người không thể quán sát ba đặc tánh này ngay từ đầu được. Thiền sinh phải bắt đầu ghi nhận các thức được sanh khởi nơi sáu cửa giác quan như “nghe”, “thấy”, v.v… Để quan sát các chuyển động nơi thân, thiền sinh phải quan sát, ghi nhận các đối tượng khi chúng đang diễn ra, như: phồng lên, xẹp xuống; dở chân lên, bước về phía trước và đạp xuống. Cũng vậy, thiền sinh phải ghi nhận tất cả những tư thế đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi tay chân sinh nó phát sanh.
Trong khi ghi nhận các hoạt động của thân và tâm như vậy, thiền sinh sẽ nhận ra sự sanh và diệt của chúng, đó là một loạt quá trình diễn ra liên tiếp nhau. Do đó, thiền sinh sẽ nhận biết được đặc tánh vô thường của chúng, từ đó sẽ kéo theo sự đau khổ và không thể kiểm soát được cái ngã (vô ngã).
Khi tâm nhận biết được như vậy, thiền sinh sẽ chứng đạt được sự hiểu biết về tam tướng hay còn gọi là tuệ thẩm sát (sammasana-ñāṇa). Thiền sinh liên tục ghi nhận bất kỳ chuyển động nào diễn ra, dù là thân hay tâm, để đạt được sự an tịnh phát sanh từ định tâm (tập trung). Sự định tâm này được gọi là nhất tâm (ekaggatā), tương đương sơ thiền (jhāna).
Các chuyển động sẽ được tự động ghi nhận khi thiền sinh có được sự phát triển trong thiền tập. Thiền sinh không còn phải cố gắng ghi nhận nữa, lúc này, thiền sinh đã đạt tới tuệ sanh diệt (udayabbaya-ñāṇa). Lúc này, tầm (vitakka) và tứ (vicāra) không còn nữa, chỉ còn hỷ (pīti) và lạc (sukha) khi định được vững chắc hơn. Giai đoạn này tương đương với nhị thiền (jhāna).
Trong giai đoạn phát triển tuệ sanh diệt, ánh sáng phát sanh từ hỷ sẽ bị chế ngự bởi lạc (sukha), và định tâm sẽ trở nên mạnh hơn. Đây là giai đoạn tương đương với tam thiền.
Sau đó, khi chú ý ghi nhận sự sanh diệt của các hiện tượng, lạc bị diệt mất và tuệ diệt được sung mãn. Lúc này, xả (upekkhā) trở nên mạnh mẽ hơn. Đây là giai đoạn tương đương với tứ thiền. Xả cùng với nhất tâm trở nên mạnh hơn trong giai đoạn tuệ giác tiếp theo, tức là tuệ xả hành. Chỉ có những thiền sinh đạt tới giai đoạn này mới biết nó là gì.
Khi Dạ-xoa Sātāgiri nói Đức Phật luôn an trú trong thiền, ý muốn nói rằng Đức Phật không bao giờ bỏ bê thiền tập.
Đức Phật Nhập Thiền Rất Nhanh
Đức Phật luôn nhập vào Thiền, vì vậy Ngài là bậc đáng tôn kính. Vào cuối mỗi bài pháp, khi các vị thính pháp đồng thanh thốt lên lời “Sādhu! Sādhu! Sādhu! (Lành thay!)”, Đức Phật đã nhập vào thiền ngay trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó. Sau đó, Ngài tiếp tục thuyết Pháp. Sự nhất quán như vậy thực sự rất tuyệt vời.
Làm Thế Nào Để Sử Dụng Từ “Sādhu” Đúng Cách?
Trong khi Sư thuyết Pháp, chỉ có một vài lần thiện tín nghe Pháp nói “sādhu”. Ở Miến Điện, thiện tín thường nói từ “sādhu” vào cuối mỗi bài kệ Pāḷi sau khi được các Sư giảng giải. Khi các vị Sư kết thúc bằng câu tiếng Miến “phyitkya le dawt tha dee”, thiện tín không chút do dự mà nói “sādhu”. Họ không quan tâm đến việc phân biệt xem câu kệ được đọc hay dịch như vậy có đáng để hoan hỷ không, họ chỉ chú ý đến từ chấm dứt là “tha dee” rồi nói “sādhu”.
Thí dụ, trong Vessantara Jātaka, Đức Vua Vessantara đã bố thí hai đứa con của mình, một trai và một gái chỉ mới vừa bốn, năm tuổi cho Bà-la-môn Jūjaka. Câu kệ Pāḷi mô tả cách đối xử của Bà-la-môn đối với hai đứa trẻ đang khóc lóc hết sức thảm thiết; cách mà ông Bà-la-môn đánh đập chúng tàn nhẫn và kéo chúng đi. Khi các vị Sư giảng bài kệ đó và dịch sang tiếng Miến Điện, cuối cùng kết thúc với câu “tha dee”, thiện tín thốt lên “sādhu” như mọi khi. Tuy nhiên, phần câu kệ đó đòi hỏi sự cảm thông từ phía người nghe, không phải sự hoan hỷ, và vì vậy “sādhu” đã đi sai hướng. Ở Miến Điện, thiện tín không quan tâm đến việc phân biệt đối xứ như vậy. Tuy nhiên, ở Srilanka (Tích-lan), thiện tín chỉ thốt “sādhu” ba lần khi bài pháp đề cập đến việc chứng ngộ Đạo Quả A-la-hán hay Niết-bàn. Đó là lúc để hoan hỷ để thốt lên lời “sādhu”.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, việc thốt lên lời “sādhu” chắc hẳn theo khuôn mẫu của người Srilanka. Khi thiện tín thốt lên “sādhu” ba lần, Đức Phật dừng lại và nhập định trong khoản thời gian ngắn ngủi đó. Ngay sau khi thiện tín thốt lên lời “sādhu”, Ngài lại tiếp tục bài giảng của mình. Ngài không bao giờ ngồi không. Điều ấy thật là đáng kính biết bao!
Các vị Sư ngày nay thuyết pháp có thể không nhập định như vậy; trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, có lẽ các Ngài nghỉ giọng hoặc cân nhắc những từ ngữ mà Ngài sẽ sử dụng khi tiếp tục thuyết giảng.
Hơn nữa, Đức Phật nhìn chúng sanh với tâm Đại Bi, an trú trong tâm Đại Bi (mahākaruṇā samāpatti) và quả vị A-la-hán (arahatta samāpatti)5Theo soạn phẩm này là 240 triệu lần mỗi ngày, Ngài an trú trong tâm Đại Bi.. Đức Phật không bỏ lỡ cơ hội để nhập Định. Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời cho bạn mình rằng, “Đức Phật, Ngài hiểu biết toàn bộ Giáo Pháp và không bao giờ xao lãng trong Thiền (jhāna).”
Tóm lại, Đức Phật đã thoát khỏi hành động bất thiện như, trộm cắp, sát sanh, hành hạ chúng sanh khác, rời xa sự phóng dật và không xao lãng trong Thiền (jhāna).
Vì Đức Phật là Bậc Toàn Tri, nên Ngài không cần phải cân nhắc trước những gì Ngài sẽ thuyết trong khi giảng Pháp, bởi ngài luôn chuẩn bị sẵn sàng hết. Ngài cũng biết bài Pháp nào phù hợp với sự chín muồi để một cá nhân chứng đắc Đạo Quả. Ngài không chỉ nhập Thiền (jhāna) sau khi thuyết Pháp, mà Ngài còn tận dụng luôn cả những khoảnh khắc ngắn ngủi trong khi thuyết Pháp để nhập Thiền (jhāna). Ngài không để thời gian trôi qua lãng phí.
Nếu chúng ta suy nghĩ như vậy, chúng ta sẽ nhận thấy rằng Đức Phật đáng tôn kính đến mức nào, vì vậy, chúng ta nên quy y Ngài với sự chú ý tập trung. Trong khi làm như vậy, chúng ta nên ghi nhận hỷ lạc phát sanh từ sự tôn kính và sự biến mất của chúng. Bằng cách sử dụng thiền vipassanā, chúng ta nên củng cố sự hiểu biết của mình cho tới khi đạt tới giai đoạn cuối cùng của Thánh Đạo.
Để kết thúc bài Pháp hôm nay, Sư khuyên các thiền sinh tiếp tục thực hành bằng cách ghi nhận các chuyển động của cơ thể, như sự phồng lên và xẹp xuống của bụng, sau đó là ghi nhận các luồng suy nghĩ và tưởng tượng trong tâm. Ghi nhận các hiện tượng của tâm được gọi là Niệm Tâm (cittānupassanā). Ghi nhận sự cứng, đau nhức chân, tay và tất cả các cảm giác khó chịu trên thân được gọi là Niệm Thọ (vedanānupassanā). Ghi nhận “thấy”, “nghe”, v.v… sự tức giận, thất vọng và các trạng thái khác của tâm được gọi là Niệm Pháp (dhammānupassanā). Sự ghi nhận tất cả các chuyển động trên thân được gọi là Niệm Thân (kāyānupassanā).
Các thiền sinh đang thực hành phương pháp này tại trường thiền đều đang cố gắng để có được giải thoát khỏi sự phóng dật. Đúng thời, thiền sinh sẽ đạt tới các giai đoạn hiểu biết cao hơn.
Sự định tâm sẽ phát triển tuần tự từ thấp lên cao theo bốn thánh đạo. Vị thánh nhập lưu có sự định tâm thật sâu sắc. Đến giai đoạn Nhất lai, thì sự định tâm ấy trở nên sung mãn hơn. Đến giai đoạn Bất Lai, tâm sẽ không còn phóng dật, định tâm càng trở nên vũng chắc, mạnh mẽ hơn. Và với sự tinh tấn để chứng ngộ A-la-hán, vị ấy sẽ tiến tới giai đoạn cuối cùng của A-la-hán Đạo (arahatta magga) và giác ngộ trở thành bậc Thánh A-la-hán. Ở giai đoạn cuối cùng này, các vị A-la-hán sẽ không bao giờ mất đi chánh niệm của mình. Vì vậy, khi tán thán trí tuệ của một vị A-la-hán, người ta thường nói rằng: “Vị thánh A-la-hán luôn luôn chánh niệm dù lúc đang đi, đứng, nằm hay ngồi.”
Một vị thánh A-la-hán sẽ không bao giờ bỏ lỡ khoảnh khắc chánh niệm nào về thân và tâm. Tất cả đều được các ngài ghi nhận. Khi nói “ngủ”, có nghĩa là các Ngài sẽ chánh niệm cho đến khi chìm vào giấc ngủ và tiếp tục chánh niệm khi thức dậy. Ngoại trừ giấc ngủ thì các Ngài luôn sống trong chánh niệm. Hãy sống trong chánh niệm, đó là lời khuyên của Đức Phật “appamādena sampādetha — hãy nỗ lực với sự chú tâm”.
Những thiền sinh đã phát triển được chánh niệm, đó là điều thực sự rất đáng khích lệ. Các thiền sinh hãy nỗ lực để chứng ngộ ít nhất giai đoạn đầu tiên của Thánh Đạo, tức là Nhập Lưu Thánh Đạo. Chỉ khi nào chứng ngộ được giai đoạn này, người ấy sẽ không còn bị rơi xuống khổ cảnh nữa.
Đức Phật Có Nói Dối Không?
Hai câu hỏi do Dạ-xoa Hemavata đặt ra liên quan đến hành động bất thiện, và liệu Đức Phật có bỏ qua Thiền (jhāna) hay không? Sau đó, Dạ-xoa Hemavata đặt câu hỏi liên quan đến lời nói bất thiện:
“Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, Đạo Sư của bạn, Đức Phật, có còn nói dối không? Ngài có còn dùng những lời lẽ thô lỗ, lăng mạ và khinh thường không? Ngài có còn thốt ra những lời nói phá hủy sự thân thiện và đoàn kết không? Ngài có còn nói những lời phù phiếm không?”
Dạ-xoa Hemavata muốn biết liệu Đức Phật có còn phạm những lời nói bất thiện, như dùng những lời lẽ lăng mạ, nói dối và kể những câu chuyện có thể khiến người này chống lại người khác hay không. Sự đoàn kết giữa bạn bè hay giữa những đối tác có thể bị hủy hoại nếu có người nói vài lời để tạo ra sự hiểu lầm.
Lời Vu Khống Của Vassakāra
Vào thời Đức Phật, Vua Ajātasattu muốn xâm lược vương quốc Vajjī, nơi các hoàng tử Licchavī đang trị vì. Các hoàng tử này đang cai trị đất nước trong sự hòa hợp và đoàn kết, và sự đoàn kết là sức mạnh của họ. Ajātasattu đã cố gắng phá vỡ sự đoàn kết và làm suy yếu sức mạnh của các hoàng tử Licchavī bằng cách sử dụng mưu kế. Ông đã gửi Vassakāra, một trong những quan đại thần của mình, đi lưu vong, và Vassakāra đã đến các hoàng tử Licchavī để xin tị nạn. Một số hoàng tử nói với những người khác, “Người Bà-la-môn này, Vassakāra, là một người xảo quyệt, đừng để hắn ta tị nạn.” Những người khác trả lời, “Người Bà-la-môn này đã bị lưu đày vì hắn ta đã nói thay chúng ta và chống lại chính vua của mình. Vì vậy, chúng ta nên tiếp nhận hắn ta.” Do đó, Vassakāra đã được các hoàng tử Licchavī tiếp nhận và được bổ nhiệm làm vị Thầy cho con cái của các hoàng tử.
Vassakāra dạy dỗ con cái của các hoàng tử rất tốt, và do đó đã giành được lòng tin của các hoàng tử. Sau khi giành được lòng tin và sự tín nhiệm của các hoàng tử, Vassakāra bắt đầu chiến dịch chống lại một hoàng tử khác. Mánh khóe mà ông sử dụng rất tinh vi: ông gọi một hoàng tử sang một bên và thì thầm hỏi, “Con đã ăn chưa? Con đã ăn món cà ri nào?”
Các hoàng tử khác thấy vậy, và hỏi hoàng tử rằng, thầy đã nói gì với vị ấy. Hoàng tử nói thật rằng Thầy đã hỏi mình đã ăn chưa và ăn món cà ri nào, nhưng các hoàng tử khác không tin vị ấy. Họ tự nghĩ, “Người ta sẽ không hỏi thì thầm những câu hỏi như vậy. Chắc chắn phải có một bí mật quan trọng nào đó.”
Tiếp theo, người Bà-la-môn hỏi một hoàng tử khác, “Cha của con có cày ruộng không? Có bao nhiêu con bò đực kéo cày?” Khi các hoàng tử khác hỏi vị ấy đã xảy ra chuyện gì giữa người Bà-la-môn và vị ấy, hoàng tử đã nói thật với họ, nhưng không ai trong số họ tin vị ấy.
Sau đó, người Bà-la-môn gọi một hoàng tử khác và thì thầm hỏi, “Ngài là kẻ hèn nhát sao?” Hoàng tử ngạc nhiên hỏi, “Tại sao? Ai nói với Thầy điều đó?” Sau đó, người Bà-la-môn nói, “Ồ, bạn của ngài, hoàng tử đó,” và chỉ vào một hoàng tử khác. Hoàng tử tức giận vì bị buộc tội như vậy, và bắt đầu không tin tưởng hoàng tử kia.
Sử dụng những lời lừa dối đơn giản như vậy, Vassakāra tiếp tục khiến một hoàng tử chống lại một hoàng tử khác. Trong vòng ba năm, ông đã tạo ra sự bất hòa giữa các hoàng tử Licchavī. Sự chia rẽ đó lớn đến mức không một hoàng tử nào muốn nhìn mặt người khác. Sau đó, Vassakāra đã gửi một thông điệp bí mật cho Vua Ajātasattu, người đã chỉ huy một đội quân chống lại vương quốc Vajjī của các hoàng tử Licchavī. Vì mỗi hoàng tử đều nghĩ rằng những người khác đã buộc tội mình là hèn nhát, nên không ai trong số họ ra ngoài chiến đấu với đội quân xâm lược. Họ tự nhủ, “Nếu vị ấy nói tôi là kẻ hèn nhát, hãy để vị ấy ra ngoài và chiến đấu.” Vì vậy, Vua Ajātasattu đã chiếm được đất nước một cách dễ dàng. Điều này dạy cho ta một bài học về việc nói xấu sau lưng. Do đó, Dạ-xoa Hemavata đã hỏi, “Liệu Đạo Sư của bạn, Đức Phật, có phải là người không nói dối để tạo ra sự hiểu lầm không?”
Dạ-xoa tiếp tục đặt câu hỏi, “Liệu Đạo Sư của bạn, Đức Phật, có phải là người không nói lời phù phiếm không?” Những câu chuyện phù phiếm như vậy, bao gồm cả tiểu thuyết và truyện ngụ ngôn hiện đại, chúng không có giới hạnh và những thông điệp có giá trị vì lợi ích trong đời sống thế tục hay tâm linh của mọi người; chúng được viết ra chỉ để đọc cho vui. Dạ-xoa Hemavata đã hỏi người bạn của mình, Dạ-xoa Sātāgiri, liệu Đạo Sự của bạn, Đức Phật, có phải là người không nói lời phù phiếm như vậy không.
Đức Phật Đã Diệt Trừ Sự Nói Dối
Dạ-xoa Sātāgiri đáp lại, “Này bạn Hemavata, Đức Phật Gotama không nói dối; Ngài đã diệt trừ sự nói dối.” Từ khi Đức Bồ tát nhận được sự thọ ký từ Đức Phật Dīpaṅkara, Ngài đã tránh xa sự nói dối. Kể từ đó, Ngài luôn tránh xa hành động bất thiện đó; Ngài luôn nói sự thật. Một người nói dối sẽ không ngần ngại phạm bất kỳ hành động bất thiện nào, vì khi được hỏi về điều ấy, họ sẽ nói dối. Kinh Pháp Cú (Dhammapada) nói rằng:
“Ai vi phạm một pháp,
Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau,
Không ác nào không làm.” (Dhp v 176)
Nói lời vọng ngữ có nghĩa là từ bỏ sự thật hay là nói dối. Một người không ngần ngại nói dối có thể làm bất kỳ hành động bất thiện nào vì họ đã sẵn sàng với một lời giải thích không thật. Một người như vậy sẽ làm bất cứ điều gì vì lợi ích cá nhân. Người nào dám làm điều bất thiện, thì kiếp sau của họ thật tối tăm. Điều này cũng đồng nghĩa với việc người ấy không quan tâm đến kiếp sau của mình. Họ chỉ quan tâm tới lợi ích trong kiếp hiện tại mà bỏ qua kiếp vị lai của chính bản thân mình. Người như vậy sẽ làm bất kỳ hành động bất thiện nào chỉ để mang lại lợi ích trong kiếp hiện tại. Vì vậy, sự dối trá là căn nguyên dẫn đến tất cả các hành động bất thiện khác.
Đức Bồ Tát đã tránh xa những hành động bất thiện này, các Ngài đã tránh xa lời nói dối trong các kiếp sống của mình. Tất nhiên, việc tránh xa những hành động bất thiện này của Ngài là do sự thu thúc trong việc thực hành giới chứ không phải do cắt đứt hết phiền não. Chỉ khi giác ngộ thành Phật, Ngài mới có thể diệt trừ những hành động bất thiện này bằng A-la-hán Đạo.
Để giải thích thêm cho vấn đề Đức Bồ Tát tránh xa sự nói dối mặc dầu Ngài không chính thức thọ trì Giới. Ngài không nói dối và luôn nói lên sự thật. Đây là sự kiêng tránh bằng cách thọ trì Giới. Nếu một người đã chính thức thọ trì Giới, họ nói rằng, “Tôi thọ trì giới không nói dối”, thì người đó đã tránh xa sự nói dối bằng cách thọ trì giới.
Những trường hợp tránh xa sự nói dối như vậy thường được nhắc tới các đối tượng, như: lớn tuổi, có danh tiếng, sợ bị chỉ trích hay sợ phạm phải hành động bất thiện.
Tuy nhiên, nếu một người đã chứng ngộ được Đạo Quả Nhập Lưu thông qua Thiền tập, họ sẽ từ bỏ hoàn toàn lời nói dối. Ở giai đoạn đó, nói dối là một điều không thể xảy ra với các vị ấy. Đức Phật đã diệt trừ được hành động bất thiện này kể từ khi Ngài chứng đạt được Đạo Quả Nhập Lưu. Cho đến khi Ngài chứng ngộ được Đạo Quả A-la-hán vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, thì chúng đã bị nhổ tận gốc rễ. Đức Phật mới thốt lên rằng, Ngài đã đạt tới giai đoạn cuối cùng ấy. Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời câu hỏi ấy chắc chắn rằng, “Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, đã hoàn toàn diệt trừ được hành động bất thiện của lời nói dối.”
Sau đó, khi được hỏi về lời mắng nhiếc, Dạ-xoa Sātāgiri đáp, “Đức Phật cũng không nói lời thô lỗ, mắng nhiếc và khinh thường người khác để hủy diệt sự thân thiện và đoàn kết.”
Một số Vị A-la-hán vẫn còn dùng lời nói thô lỗ, bởi vì đây là tiền khiên tật, nhưng nó không xuất phát từ động cơ bất thiện. Thí dụ, Tôn giả Pilindavaccha có thói quen hay gọi mọi người là “kẻ vô gia cư”, vì Tôn giả là một người Bà-la-môn. Tuy nhiên, Đức Phật đã diệt trừ hết các tiền khiên tật, dẫu tốt hay xấu, ngay sau khi Ngài giác ngộ.
Khi được hỏi về nói lời phù phiếm, Dạ-xoa Sātāgiri đáp rằng: “Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài chỉ nói những gì phù hợp và có lợi ích cho các vấn đề thế tục hay giáo Pháp.”
Khi nói như vậy, Dạ-xoa Sātāgiri muốn nói rằng, Đức Phật đã nhìn thấy chơn lý của mọi vấn đề bằng trí tuệ của mình, và chỉ nói những lời có lợi ích, đưa tới sự an lạc, Ngài không bao giờ nói bất kỳ lời phù phiếm nào.
Chánh Ngữ có bốn chi phần:
1. Không nói dối, chỉ nói sự thật;
2. Không nói lời thô lỗ, mà chỉ dùng lời nhẹ nhàng có lợi cho người nghe;
3. Không nói xấu, mà thúc đẩy sự thân thiện và đoàn kết;
4. Không nói lời phù phiếm, chỉ nói những gì thích hợp và có lợi ích.
Bốn chi phần này ứng dụng cho việc giao tiếp trong các vấn đề thế tục cũng như trong Giáo Pháp. Nếu một người thực hành theo bốn chi phần này, người ấy được coi là nói lời thanh tịnh.
Lời Nói Hoàn Hảo
Có sáu loại lời nói được sử dụng trong giao tiếp của con người:
1. Lời nói dối, không có lợi, và không làm hài lòng người khác.
Thí dụ, nếu một người buộc tội một người có Giới là phá giới, thì lời nói của người buộc tội là sai. Lời buộc tội của người đó có thể được một người khác tin tưởng, và họ sẽ không tin tưởng người bị buộc tội, do đó, vô tình dẫn tới sự bất bình. Người bị buộc tội cũng không hoan hỷ vì mình bị buộc tội bất công. Lời buộc tội sai sẽ không được bậc hiền trí ưa thích, vì vậy, lời nói như vậy quả thật độc hại và không phù hợp.
2. Lời nói dối, không có lợi, nhưng làm hài lòng nhiều người.
Những câu chuyện hư cấu, nói xấu sau lưng, gây ra những sự hiểu lầm và mất đoàn kết, thậm chí những bài giảng sai Pháp cũng vậy. Những câu chuyện cổ tích, tiểu thuyết hay truyện kể chỉ là những sản phẩm hư cấu. Chúng không phải là những câu chuyện kể về những sự kiện có thật và chúng không mang lợi ích đến cho người đọc, những câu chuyện ấy có thể kích thích tham dục, buồn bã, sân hận hoặc chán nản. Tuy nhiên, những câu chuyện như vậy được nhiều người ưa thích. Kẻ nói xấu đưa ra những lời buộc tội sai trái và nói lên lời phiến diện, nhằm phá hoại tình bạn và sự đoàn kết. Những lời tuyên truyền ngày nay chứa nhiều lời nói dối và cáo buộc một cách vô căn cứ. Dẫu rằng lời vu khống gây ra nhiều sự đau khổ, nhưng người nghe có thể cảm thấy nó nhằm mục đích tốt cho mình.
Bây giờ, Sư sẽ trích dẫn một số tuyên bố trong Tam Tạng (Tipiṭaka). Vào thời xa xưa, trước khi Đức Phật giác ngộ, một số giáo lý ủng hộ việc hiến tế động vật. Người ta cho rằng điều này làm vô hiệu hóa sự ảnh hưởng của những việc làm bất thiện và mang lạnh sự giàu sang, hạnh phúc. Ngay cả Đức Vua Pasenadi của nước Kosala cũng từng sắp xếp một buổi lễ hiến tế như vậy để xoa dịu các vị thần. Đức Vua đã sắp xếp những con bò cái, bò đực, dê và cừu non (mỗi loại năm trăm con).
Theo lời khuyến dụ của Hoàng Hậu Mallikā, Đức Vua đã đến gặp Phật và xin lời khuyên của Ngài. Đức Phật dạy rằng, nếu Vua phóng sanh những con vật ấy và để chúng được sống, điều đó sẽ mang lại công đức, mang lại sự bình an, hạnh phúc cho Ngài. Nhận ra việc làm sai lầm của mình, Đức Vua đã ra lệnh phóng sanh những con vật đang bị đem đi hiến tế.
Sát hại động vật để có được sự giàu sang, hạnh phúc là một điều hết sức phi lý. Họ tin rằng việc gây ra đau khổ cho động vật sẽ dẫn đến hạnh phúc, dẫu điều ấy là cực kỳ phi lý, nhưng nhiều người vẫn tin vào những buổi lễ hiến tế như vậy.
Vào thời Đức Phật, Ajita Kesakambala, một vị Đạo Sư ngoại đạo đã có quan điểm rằng: “Không có hành động thiện (kusala) hay bất thiện (akusala), chúng cũng chẳng cho kết quả, bởi vì không có kiếp sau.” Đây gọi là đoạn kiến (uccheda-diṭṭhi). Người có niềm tin vào thuyết này sẽ không tránh xa những hành động bất thiện, vì vậy họ không có phẩm chất giới đức nào đáng để tán thán. Sau khi chết, những người có niềm tin vào thuyết đoạn diệt sẽ tái sanh vào khổ cảnh (nơi mà họ từng phủ nhận) và phải chịu đau khổ trong khoản thời gian lâu dài. Đây là cảnh giới dành cho những người phủ nhận kiếp sống sau khi chết theo lời Phật dạy.
Những niềm tin như vậy không mang tới lợi ích, nhưng nhiều người vẫn tin vào chúng. Vì vậy, họ tuyên bố rằng “không có nghiệp, hay quả của nghiệp, do đó, cũng chẳng có kiếp sau.” Điều đó là không đúng, không có lợi ích dù cho nhiều người thích nó. Đây là một thí dụ về loại lời nói thứ hai. Có nhiều người có niềm tin như vậy, dù cho chúng không đúng và cũng không có lợi ích. Đức Phật, Ngài quở trách những lời nói như vậy, và chúng ta cần phải kiêng tránh nó.
3. Lời nói đúng, không có lợi ích, và không làm người khác hài lòng.
Thí dụ gọi một tên trộm là tên trộm, một kẻ gian là kẻ gian, một kẻ ngốc là kẻ ngốc hoặc một người đuôi mù là đuôi mù. Mặc dù nó đúng, nhưng nó không có lợi ích, và những người liên quan cũng không thích nó. Đức Phật không bao giờ sử dụng những lời nói như vậy.
4. Lời nói đúng, không có lợi ích, nhưng làm nhiều người hài lòng.
Thí dụ, trích dẫn ai đó và để người đó chống lại người khác. Lời nói như vậy gây ra sự bất hòa và đau khổ, nhưng người nghe có thể sẽ hoan hỷ vì người nói đang chia sẻ sự tin tưởng. Loại lời nói này bao gồm tin đồn và chuyện phím chính trị, có thể đó là sự thật và được nhiều người ưa thích, nhưng nó không có lợi ích. Hơn nữa, nó làm phiền những người đang tu tập con đường Phạm Hạnh. Đức Phật không sử dụng những lời nói như vậy.
5. Lời nói chân thật và có lợi, mặc dù không làm hài lòng một số người.
Những lời khuyên răn, như: “Hiện tại bạn gặp đau khổ vì bạn đã tạo nhiều việc bất thiện trong quá khứ6Những người theo chủ nghĩa duy vật sẽ không tin vào sự tái sinh và nghĩ rằng mọi thứ đều có thể giải thích bằng khoa học. Thí dụ, họ nói rằng mọi bệnh tất đều có nguyên nhân, về di truyền hoặc môi trường sống, sớm muộn gì y học cũng sát phát hiện ra. Họ ủng hộ việc giết mổ động vật để làm thí nghiệm hay thí nghiệm trực tiếp một cách vô đạo đức trên động vật để tìm phương pháp chữa bệnh cho con người. Do đó, thật trớ trêu khi phải thực hành theo lời dạy của Đức Phật, vì sự sát hại động vật sẽ là nhân dẫn tới tái sanh nơi địa ngục. Sau khi thoát khỏi địa ngục, được tái sanh làm người thì họ lại tái sanh làm người mang nhiều tật bệnh trong người (Cūḷakammavibhaṅga Sutta). Theo Phật Giáo, mọi kết quả hiện tại đều là Nghiệp quá khứ, đây là một quan điểm sai lầm (Pubbekatahetu-diṭṭhi). Vì bệnh tật xảy ra theo bốn lý do, thức ăn, khí hậu và tâm là những nguyên nhân quan trọng, nhưng nghiệp quá khứ là một trong bốn nhân có thể xảy ra. Một người nên tìm hiểu kỹ lưỡng về luật nhân quả trước khi đưa ra một kết luận quá dễ dàng. Một người có thể nói chắc chắn rằng, nghiệp bất thiện cho quả xấu, trong khi thiện nghiệp cho quả lành. Như Đức Phật đã nói, “không thể có một hành động xấu nào lại đem tới một kết quả dễ chịu.” (Aṭṭhānapāḷi, Dutiyavaggo, A.i.i.284) (ed.). Nếu bạn không sửa đổi mà cứ tiếp tục làm những việc bất thiện, thì rất khó để bạn thoát ra khỏi địa ngục.” Lời khuyên như vậy xuất phát từ ý định tốt, vì lợi ích người khác. Sự thẳng thắn như vậy có thể khiến người khác không hài lòng, tuy nhiên, đôi khi vẫn nên sử dụng. Đức Phật đã sử dụng những lời nói như vậy khi cần thiết.
Đức Phật tuyên bố rằng Devadatta sẽ rơi xuống địa ngục và chịu đau khổ ở đó trong suốt kiếp vì ông đã thuyết phục một số Tỳ-khưu thành lập một Hội Chúng mới, do đó, ông đã gây ra sự chia rẽ Tăng (Saṅghabheda). Nhóm của Devadatta không thích lời tiên đoán này, nhưng Đức Phật đã đưa ra lời khuyên này vì lợi ích của những người khác, nếu họ cứ hành động bất thiện như vậy thì kết cục họ cũng y như thế ấy. Đức Phật sử dụng lời nói như vậy vì nó đúng và mang tới lợi ích cho nhiều người, mặc dù một số người không thích.
6. Lời nói chân thật, có lợi và làm hài lòng nhiều người.
Lời nói này bao gồm những lời giảng về thiện pháp, về giới và tu tâm. Các bài giảng Pháp có lợi và được những bậc hiền trí ưa thích. Vì vậy, Đức Phật sử dụng những lời nói như vậy bất cứ khi nào thích hợp. Đức Phật chủ yếu sử dụng lời nói này.
Trong sáu loại lời nói, lời nói dối, không bao giờ có lợi, chẳng nên sử dụng, dù cho nó có làm người khác hài lòng hay không. Đức Phật không bao giờ sử dụng lời nói như vậy. Lời nói chân thật, nhưng không có lợi, bất kể nó có làm hài lòng người khác hay không, Đức Phật cũng không bao giờ sử dụng. Vì vậy, Đức Phật không bao giờ sử dụng bốn loại lời nói này. Lời nói chân thật, có lợi, mặc dù đôi khi làm người khác khó chịu, Đức Phật vẫn sử dụng. Tất nhiên, Đức Phật chọn đúng dịp mới nói những lời nói như vậy. Ngài không bao giờ nói bất cứ điều gì nếu không có lý do.
Việc chọn đúng từ ngữ phù hợp với ngữ cảnh rất là quan trọng. Nói điều gì đó đúng đắn và có lợi, có thể sẽ không phù hợp khi đang tổ chức lễ hội. Thí dụ, trong lễ cưới hoặc lễ xuất gia Sa-di, khi mọi người đang hoan hỷ, thì việc nói về những chủ đề như hành thiền về đề mục xác chết hay các giai đoạn tuệ giác dẫn đến niết-bàn là không phù hợp. Ngược lại, thuyết giảng về Hạnh Phúc (maṅgala) trong dịp tưởng niệm là không thích hợp.
Tóm lại, Đức Phật chỉ sử dụng những từ ngữ để thuyết Pháp và mang lại lợi ích cho nhiều người. Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata rằng, Đức Phật sẽ nói sau khi Ngài cân nhắc đến lợi ích về các vấn đề thế tục và trong giáo Pháp.
Ân Đức Sugato
Vì Đức Phật sử dụng lời thích hợp cho từng trường hợp, nên Ngài có Ân Đức Sugato. Đức Phật nói lời đúng đắn và có lợi ích cho nhiều người, mặc dù vẫn có những người không hài lòng. Vì vậy, Đức Phật có ân đức nói lời đúng đắn dẫu điều đó có được ưa thích hay không.
Sau khi Dạ-xoa Sātāgiri trả lời về việc Đức Phật không làm bốn hành vi bất thiện trong lời nói, nên Dạ-xoa Hemavata đặt ra câu hỏi khác liên quan đến tâm bất thiện.
Đức Phật Có Diệt Trừ Tham Dục Chưa?
Dạ-xoa Hemavata hỏi, “Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, Đức Phật, bậc Đạo Sư của bạn có diệt trừ được tham sanh khởi nơi các giác quan không? Ngài có diệt trừ được sân hận chưa? Ngài có còn si mê không? Đức Phật, bậc Đạo Sư của bạn, có mắt để thấy tất cả các Pháp (Pháp nhãn) không?”
Trong ba hành động bất thiện của tâm, sự tham lam ám chỉ ước muốn chiếm đoạt tài sản của người khác và ấp ủ âm mưu để đạt được mục đích ấy. Dạ-xoa Hemavata muốn biết Đức Phật đã thoát khỏi sự tham muốn (abhijjhā) chưa? Mọi người thường mong muốn sở hữu những thứ xinh đẹp. Ngay cả những người tự xưng là Phật cũng không thoát khỏi những tham cầu như vậy.
Thoát khỏi ham muốn giết chóc hoặc hủy diệt có nghĩa là thoát khỏi sự ác ý (byāpāda) — mong muốn thấy một người bị hại hoặc bị giết chết. Con người thường muốn thấy người mà họ ghét bị sát hại, thậm chí một số người còn bày tỏ mong muốn ấy. Những vị Phật giả vào thời đó cũng không thoát khỏi những ác ý này. Họ nói rằng, một người có thể giết chết người khác mà không bị bất cứ trừng phạt nào. Không thể nói rằng Thượng Đế trừng phạt các sanh vật bằng cái chết là không có ác ý.
Suy cho cùng, mong muốn người khác chết là biểu hiện của sự sân hận, người ấy chắc chắn không thể nào có được tâm thanh tịnh. Dạ-xoa Hemavata muốn biết, liệu tâm Đức Phật có thanh tịnh hay không, nên đã hỏi rằng, “Tâm bậc Đạo Sư của bạn, Đức Phật, Ngài có diệt trừ được những uế nhiễm ác ý chưa?”
Tà kiến (micchā diṭṭhi), là sự kết hợp của si mê và vô minh. Khi Dạ-xoa Hemavata hỏi liệu Đức Phật đã diệt trừ được si mê hay chưa, vị ấy muốn biết liệu Đức Phật có thoát khỏi tà kiến hay không, đây là một trong những ô nhiễm của tâm. Đặt câu hỏi như vậy về Đức Phật có vẻ rất thô lỗ, nhưng vào thời đó, nhiều vị đạo sư ngoại đạo đã đã tự nhận mình là Đức Phật.
Ba Loại Tà Kiến
Trong số các vị Phật giả, Purāṇa Kassapa dạy rằng, sát sanh, trộm cắp và các hành động bất thiện khác không đưa tới quả bất thiện, còn bố thí hay các hành động thiện cũng không đưa tới quả thiện. Niềm tin này, phủ nhận nguyên lý của Nghiệp, nó được gọi là akiriya diṭṭhi, tức là tin rằng không có kết quả (dù làm thiện hay ác).
Ajita, một đạo sư ngoại đạo dạy rằng, những hành động đã làm (dẫu tốt hay xấu) cũng không có ảnh hưởng chi cả, vì chết là hết. Niềm tin này gọi là Vô Hữu Kiến (natthika diṭṭhi).
Một ngoại đạo sư khác, Makkhali Gosāla dạy rằng, không có nguyên nhân nào dẫn đến sự ô nhiễm, đau khổ, cũng như sự thanh tịnh hay hạnh phúc. Niềm tin phủ nhận nguyên lý của nghiệp này gọi là Vô Nhân Kiến (ahetuka diṭṭhi).
Ngoại đạo sư cuối cùng, Pakudha Kaccāyana, dạy rằng, tất cả các chúng sanh đều cấu thành bởi bốn yếu tố, hạnh phúc (sukha), khổ đau (dukkha) và sự sống (jīva). Bảy yếu tố này không thể bị ai tiêu diệt, không gì có thể ảnh hưởng đến bảy phần này. Do đó, phước hay tội cũng chẳng có ý nghĩa gì.
Những ngoại đạo này đã chìm đắm trong si mê và vô minh. Do đó, câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata về việc Đức Phật có thoát khỏi vô minh chưa là điều hợp lý.
Những câu hỏi liên quan đến những hành động bất thiện về thân, khẩu và ý đã được hỏi và giải đáp quá rõ ràng. Tuy nhiên, điều đó không thuyết phục Dạ-xoa Hemavata tin rằng Đức Phật là Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddha) thực sự. Bởi vì những đức tánh đó cũng có ở Chư Phật Độc Giác (Paccekabuddha) và bậc thánh A-la-hán (Arahant). Vì vậy, Dạ-xoa Hemavata hỏi thêm, “Liệu bậc Đạo Sư của bạn, Đức Phật, có tuệ nhãn để thấy tất cả các Pháp hay không?”
Tâm Của Đức Phật Luôn Thanh Tịnh
Đây là câu trả lời cho câu hỏi, “Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, Đức Phật, bậc Đạo Sư của bạn, đã thoát khỏi tham muốn trong dục lạc chưa?”
Khi Ngài xuất gia vào lúc hai mươi chín tuổi, Đức Phật đã thoát khởi tham muốn trong dục lạc. Ngay cả khi Ngài thực hành khổ hạnh tột độ, tâm Ngài vẫn không hướng lui về những dục lạc ở hoàng cung trước kia, và Ngài đã thoát khỏi lòng tham dục. Khi chứng đắc đạo quả A-la-hán, mọi tham dục đều được nhổ tận gốc bởi A-la-hán Đạo. Ngài tuyên bố như vậy trong bài Pháp đầu tiên của mình với nội dung rằng, Ngài đã diệt trừ được nguyên nhân của đau khổ, tức là tham ái.
Đối với câu hỏi, “Đức Phật, bậc Đạo Sư của bạn, Ngài đã thoát khỏi sự tham muốn giết chóc chưa?” Dạ-xoa Sātāgiri đáp, “Tâm của bậc Đạo Sư chúng ta lúc nào cũng thanh tịnh.”
Tâm của Đức Phật thấm nhuần lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh. Khi Aṅgulimāla đuổi theo Ngài với Kiếm trong tay, Đức Phật chỉ có lòng từ bi và thương xót dành cho vị ấy. Khi con Voi say rượu Nāḷāgiri lao đến húc Ngài, Đức Phật cũng phát khởi lên lòng bi mẫn thanh tịnh. Cũng vậy, sau khi Devadatta lăn một tảng đá lớn từ trên núi xuống, làm văng một mảnh nhỏ rơi trúng vào ngón chân của Ngài. Ngay cả những hoàng cảnh như vậy, tâm của Đức Phật cũng không có những cảm giác tiêu cực chứ đừng nói chi đến những hoàn cảnh khác. Đức Phật đã thanh lọc được tâm ra khỏi những trạng thái ác ý và sân hận bằng A-la-hán đạo, nên tâm Ngài lúc nào cũng thanh tịnh. Đó là câu trả lời của Dạ-xoa Sātāgiri.
Để trả lời cho câu hỏi “Đức Phật đã vượt qua được si mê chưa?”. Dạ-xoa Sātāgiri đáp, “Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, đã diệt trừ si mê và vô minh thông qua bốn Thánh Đạo.”
Dạ-xoa Hemavata muốn hỏi, liệu Đức Phật đã diệt được tà kiến bởi si mê gây ra chưa, nhưng câu trả lời của Dạ-xoa Sātāgiri đã quá rõ ràng. Dạ-xoa nói rằng, Đức Phật đã diệt trừ được si mê, đó là một câu trả lời đầy đủ.
Bồ Tát Thoát Khỏi Tà Kiến
Kể từ khi Đức Phật Dīpaṅkara thọ ký, Ngài sẽ trở thành một Đức Phật, Đức Bồ Tát đã thoát khỏi tà kiến phủ nhận nguyên lý của Nghiệp, chẳng hạn: niềm tin về sự thường hằng, vĩnh viễn hay còn gọi là thường kiến (assata diṭṭhi) và đoạn kiến (uccheda diṭṭhi). Khi giác ngộ Phật Quả, Ngài đã diệt trừ được mọi ô nhiễm, luôn cả các ác tà kiến (duccarita micchā diṭṭhi). Những vị đạo sư ngoại đạo, như Purāṇa Kassapa và các vị khác đều truyền bá những ác tà kiến như vậy. Đức Phật khuyến giáo thính chúng của mình không nên đi theo những con đường sai lầm (tà đạo) này.
Đức Phật dạy rằng, những tà kiến như “sát sanh, trộm cắp và những hành động bất thiện không tạo ra hậu quả xấu (ác nghiệp)”, là do chấp vào năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Ngài khẳng định rằng, ai biết năm uẩn là vô thường, khổ và vô ngã thì người ấy không thể chấp nhận những tà thuyết như vậy.
Đức Phật thí dụ quan điểm của một vị đạo sư ngoại đạo Makkhali Gosāla giống như một màng lưới và Ngài khuyến dụ các để tử của mình từ bỏ những tà thuyết ấy. Bây giờ, chúng ta sẽ tóm tắt quan điểm của Makkhali. Theo vị ấy, không có nguyên nhân nào dẫn tới giàu hay nghèo, không điều gì có thể thay đổi hoặc cải thiện để xoay chuyển tình thế, bởi vì cuộc sống của tất cả chúng sanh đều do số mệnh sắp đặt. Số mệnh quy định sự giàu, nghèo, sanh ra cõi cao hay cõi thấp. Mỗi chúng sanh đều có vui, khổ, giàu và nghèo. Giống như một cuộn chỉ được thả lăn cho khi sợi chỉ được kéo ra hết, cũng vậy, chu kỳ tồn tại của mỗi chúng sanh sẽ chấm dứt khi số mệnh đã định sẵn đi tới chỗ kết thúc.
Quan điểm tiền định này khẳng định rằng, người ta chỉ cần sống hết thời gian của mình, và chẳng cần cố gắng để cải thiện. Với suy nghĩ rằng, một người sẽ tự động trưởng thành như vậy, nó phù hợp với những người lười biếng làm thiện pháp, những người ưa thích làm ác pháp. Đây là một triết lý lý tưởng cho những kẻ gian manh. Nó cũng phù hợp với lòng tin trong thời hiện đại này, những người đã đạt tới địa vị cao sẽ không bị sa sút đi sau khi chết, mà sẽ tự động trưởng thành lên dần dần. Niềm tin này được cho là trong tục ngữ tiếng Miến, “lu the lu phyit — sau khi chết đi, con người lại trở thành người.”
Một khi đã bị mắc vào quan điểm của Makkhali, họ không thể thoát ra và phải chết trong tà kiến ấy. Đức Phật muốn nói rằng, những ai ủng hộ quan điểm này, họ sẽ không làm bất kỳ hành động thiện nào để tái sanh lên thiên giới hay chứng ngộ Niết-bàn, vì vậy, họ sẽ rơi vào địa ngục.
Sư đã nghe một số vị thuyết giảng rằng, chỉ cần lắng nghe những gì các vị ấy giảng là đủ, còn hành thiền thì không cần thiết. Những vị Thầy như vậy nên lưu ý đến thí dụ về màng lưới (tà kiến) mà Đức Phật đã nói về ngoại đạo Makkhali. Quan điểm của Purāṇa Kassapa và Ajita Kesakambalī cũng thuộc về ‘màng lưới (tà kiến)’ như vậy, nó ngăn cản chúng sanh đạt tới Thiên giới hay Niết-bàn.
Nguồn Gốc Của Tà Kiến
Tà kiến phủ nhận nghiệp và quả của nghiệp bắt đầu từ khi nào?
Theo Kinh Cakkavatti, những tà kiến này xuất hiện vào thời đại tuổi thọ con người chỉ còn một nghàn năm. Trước thời đại đó, có lẽ con người ít tham, sân, si hơn, và do đó, họ không say mê lập luận về nghiệp báo. Sau thời đại đó, con người ngày càng trở nên suy đồi và họ bắt đầu chấp nhận những quan điểm sai lầm này. Tuy nhiên, những quan điểm này không được nhiều người ưa thích. Thậm chí ngay cả vào thời kỳ của Đức Phật, tuổi thọ con người đã giảm xuống còn một trăm năm, nhưng chúng vẫn không được nhiều người ưa thích.
Khi các chuẩn mực đạo đức ngày càng suy thoái, con người càng trở nên suy thoái hơn, đồng thời, những tà kiến bắt đầu phát triển mạnh mẽ. Theo Kinh Cakkavatti, trong tương lai, khi tuổi thọ con người giảm xuống chỉ còn mười năm, đạo đức sẽ biến mất, ngay cả cụm từ “hành động bất thiện” cũng sẽ trở nên lỗi thời. Việc phủ nhận luật nhân quả đang dần được chấp nhận nhiều hơn, vì sự mong cầu dục lạc của con người ngày càng tăng trưởng. Và ngày nay, một số người vẫn nghĩ rằng sẽ không đạt được lợi ích nếu không làm điều bất thiện. Quan điểm này sẽ dẫn mọi người đi đến tà kiến.
Thoát Khỏi Mọi Si Mê
Sự phủ nhận luật nhân quả hiện nay rất phổ biến, bởi vì tham dục quá lớn phát sanh từ si mê. Đức Phật nhận ra điều này, vì vậy, Ngài khuyên mọi người hãy cố gắng hết sức để làm giảm bớt lòng tham và sự si mê. Những ai làm theo lời khuyên của Đức Phật, cố gắng giác ngộ bằng thiền tập, nhờ đó, họ được giải thoát khỏi tà kiến. Họ nhận ra rằng, nghiệp quá khứ đã định hình nên kiếp hiện tại, và nghiệp hiện tại sẽ định hình nên kiếp vị lai, nếu vẫn còn chi phối bởi tham ái. Do đó, học có một niềm tin chắc vào Chánh Kiến.
Rõ ràng, Đức Phật đã thoát khỏi tà kiến, nhưng vào lúc đó, có nhiều vị Phật giả xuất hiện, việc Dạ-xoa Hemavata hỏi rằng, liệu Đức Phật đã vượt qua si mê hay chưa là điều rất thích hợp. Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời, Đức Phật đã diệt trừ được si mê và tà kiến.
Tuệ Nhãn Của Đức Phật
Khi trả lời câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata về sự hiểu biết của Đức Phật trong tất cả các Pháp, Dạ-xoa Sātāgiri đáp rằng, “Bậc đạo sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài có tuệ nhãn nhìn thấy tất cả các Pháp.”
Có năm loại mắt (nhãn):
1. Nhục nhãn hay con mắt thịt (maṃsa cakkhu);
2. Thiên nhãn (dibbacakkhu);
3. Pháp nhãn (dhamma cakkhu);
4. Toàn trí nhãn (samanta cakkhu);
5. Phật nhãn (Buddha cakkhu).
1. Nhục nhãn thanh tịnh và có thể thấy khoảng cách 1 do tuần (yojana), khoảng 7 dặm.
2. Đức Phật có thiên nhãn, tức là đôi mắt nhìn thấy tất cả các hình dạng vật chất, lớn hay nhỏ, xa hay gần; Ngài có thể nhìn thấy nơi ở của Chư Thiên và Phạm Thiên; các cõi đoạ xứ như địa ngục, ngạ quỷ và A-tu-la (Asura); thậm chí đôi mắt của Ngài có thể nhìn thấy các vũ trụ khác nhau. Đôi mắt ấy có thể thấy bất cứ thứ gì, ở bất cứ nơi đâu, dưới bất kỳ hình dạng gì hay màu sắc nào. Với thiên nhãn, Ngài có thể nhìn thấy chỗ tái sanh của một chúng sanh trong kiếp kế tiếp. Đức Phật đã chứng đắc thiên nhãn vào nữa đêm ngay trong ngày chứng đắc Phật Quả. Sau đó, Ngài nhìn thấy tất cả ba mươi mốt cõi luân hồi, trong đó có nhiều chúng sanh khác nhau đang sanh sống, đang tận hưởng dục lạc hoặc thọ khổ.
3. Pháp nhãn, chữ ‘Pháp’ ở đây muốn nói đến sự hiểu biết của Tuệ Quán Triệt (paccavekkhaṇa-ñāṇa), đặc biệt là trí tuệ về Thánh Đạo. Pháp nhãn đồng nghĩa với Nhập Lưu Thánh Đạo.
4. Toàn trí nhãn (Samanta cakkhu) đồng nghĩa với Nhất Thiết Trí (sabbaññuta-ñāṇa). Đó là con mắt thấy tất cả các Pháp. Đức Phật tuyên bố khi thuyết giảng bài Pháp đầu tiên Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka Sutta) rằng, Ngài đã đạt được con mắt này khi giác ngộ thành Phật.
5. Phật nhãn. Tuệ nhãn biết rõ căn cơ cao thấp của tất cả chúng sanh (indriyaparopariyatta-ñāṇa), tức là Ngài biết rõ mức độ già dặn trong tâm của các chúng sanh. ‘Lực’ (indriya) bao gồm, tín (saddhā), tấn (viriya), niệm (sati), định (samādhi) và tuệ (paññā). Đức Phật có thể nhìn thấy sự già dặn của các ‘lực’ này trong tâm các chúng sanh. Ngài xem xét mức độ già dặn trong tâm của các chúng sanh, để biết họ đã sẵn sàng thấy Pháp và chứng ngộ Niết-bàn hay chữa. Nếu người nào còn thiếu sự già dặn, Ngài sẽ không vội thuyết Pháp cho họ. Ngài trì hoãn thời gian ấy lại, đôi khi là nhiều tháng hoặc nhiều năm, nhưng cũng có khi chỉ vài phút.
Để thí dụ cho sự trì hoãn như đã nói, có một câu chuyện về Bāhiya-dārucīriya. Ông là một vị tu khổ hạnh đến từ Suppāraka (thuộc vùng Aparanta trên bờ biển phía tây Ấn Độ) đã đến Tu viện Jetavana (gần thành phố Sāvatthi, cách đó khoảng 1.400 dặm). Khi Ông đến, Đức Phật đang đi khất thực trong Thành. Bāhiya không đợi ở Tu Viện mà đi vào Thành để gặp Đức Phật. Khi gặp Đức Phật, Ông đảnh lễ và thỉnh cầu Ngài thuyết Pháp.
Đức Phật thấy (tâm) Ông vẫn chưa đủ già dặn để tiếp thu Giáo Pháp nên Ngài nói rằng, không nên thuyết Pháp trong khi đang đi khất thực. Bāhiya thỉnh cầu lần thứ hai và Đức Phật cũng từ chối. Khi ông yêu cầu đến lần thứ ba, Đức Phật thấy rằng các căn của ông đã đạt tới sự già dặn và Ngài đã thuyết giảng bài Pháp ngắn như sau:
“Này Bāhiya, khi ông nhìn thấy một đối tượng, chỉ biết là thấy; khi ông nghe một âm thanh, chỉ biết là nghe; khi ông đang ngửi hoặc nếm hoặc chạm vào một đối tượng, chỉ biết là mùi, vị hay xúc chạm; và khi ông suy nghĩ về bất kỳ điều gì, hãy biết là đang suy nghĩ.”7Kinh Pháp Cú Câu 101 (Dhammapada, v 101).
Trong khi lắng nghe bài Pháp, Bāhiya đã trở thành một vị thánh A-la-hán sau khi trải qua các giai đoạn tuệ giác, cùng bốn đạo và bốn quả. Đây là một thí dụ điển hình về sự trì hoãn chỉ trong vài phút8Bản chú giải của Kinh Pháp Cú câu 70 (Dhammapada, v 70) kể câu chuyện về một vị đạo sĩ lõa thể tên là Jambuka. Ông phải chịu quả của ác nghiệp trong quá khứ đã tạo, trước khi các Ba-la-mật (pāramī) chín muồi đưa tới Đạo Quả. Đây là một thí dụ về sự trì hoãn trong năm mươi lăm năm. Trí tuệ phi thường này của Đức Phật có thể đánh giá được sự già dặn trong tâm của các chúng sanh, chính vì vậy mà Ngài tế độ được hết những người hữu duyên nên tế độ. Thậm chí, Ngài có thể thuần hóa được con Voi hung dữ Nāḷāgiri..
Tuệ Hiểu Biết Khuynh Hướng Chúng Sanh
Āsayānusaya-ñāṇa có nghĩa là trí tuệ hiểu biết sâu sắc về tánh cách riêng biệt của một người. Khuynh hướng tiếng Pāḷi gọi là āsaya. Có hai khía cạnh trong tâm của một chúng sanh, đó là quan điểm hay còn gọi là kiến (diṭṭhi) và tuệ hay sự hiểu biết (ñāṇa). Phàm nhân thường có những quan điểm sai lầm (tà kiến) nằm sâu trong tâm. Họ có quan điểm về sự vĩnh cửu (thường kiến), thường hằng hoặc là hư vô (đoạn kiến). Những người thích sự thường hằng thì không thích hư vô, vì họ ủng hộ những quan điểm về sự trường tồn của linh hồn. Còn những người thích hư vô thì không thích sự thường hằng, vì họ ủng hộ về sự biến mất hoàn toàn của một chúng sanh sau khi chết.
Hai quan điểm này có thể thay đổi cho nhau vì lý do này hay lý do khác, nhưng họ thường quay trở lại quan điểm ưa thích của mình. Họ giống như những cho Chó Hoang lang thang vào ban ngày rồi lại trở về hang để ngủ vào ban đêm. Đức Phật biết rõ một chúng sanh có khuynh hướng theo thường kiến hay đoạn kiến, và thuyết Pháp để giúp chúng sanh ấy nhanh chóng chứng đạt Đạo Quả.
Trong số những người mong muốn thoát ra khỏi vòng luân hồi và chứng ngộ niết-bàn, một số người đã chứng đạt được tuệ minh sát (vipassanā-ñāṇa). Mặc dầu chưa đến giai đoạn Thánh Đạo, vẫn còn có quan điểm về sự thường hằng (nicca), hạnh phúc (sukha) và bản ngã (atta). Nhưng sau khi nghe Đức Phật thuyết Pháp họ sẽ phát sanh tuệ giác thấy được vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Cũng vậy, những ai đã đạt được trí tuệ minh sát thấy được vô thường, khổ, vô ngã nhưng bị gián đoạn trong một thời gian, họ có thể lấy lại được tuệ ấy sau khi tiếp tục hành thiền trở lại. Nó như một người trở về lại căn nhà của mình vậy.
Vì các bậc Thánh Nhập Lưu và Nhất Lai chưa hoàn toàn thoát khỏi dục (kāma), tham (rāga) và sân (byāpāda), nên những uế nhiễm này có thể sanh khởi trong khi thất niệm. Khi các vị ấy lấy lại được chánh niệm, thì họ sẽ lấy lại được hiểu biết sâu sắc về sự thật. Nó giống như việc rời khỏi nhà đi đến viếng thăm nơi khác trong ngày, rồi lại trở về nhà vào ban đêm vậy. Đức Phật đã thấy được bản chất này của Tâm, nên Ngài thuyết một bài Pháp phù hợp với khuynh hướng tâm của mỗi người. Nhờ vậy mà họ chứng đắc được Đạo và Quả.
Có bảy loại ô nhiễm tiềm ẩn (anusaya kilesā):
1. Tham dục (kāma rāga);
2. Tham hiện hữu (bhava rāga);
3. Sân (paṭigha);
4. Ngã mạn (māna);
5. Tà kiến (diṭṭhi);
6. Hoài nghi (vicikicchā);
7. Vô minh (avijjā).
Đức Phật thấy rõ cái nào chiếm ưu thế trong tâm của một người và ban bố một thời pháp thích hợp nhất. Đó là lý do tại sao những người trực tiếp nghe Đức Phật thuyết pháp đều nhanh chóng chứng đắc được Niết-bàn.
Tuệ thấy biết sự già dặn của tâm và tuệ thấy biết khuynh hướng tâm của một chúng sanh, được gọi là Phật Nhãn (Buddha cakkhu). Sự hiểu biết này chỉ có Đức Phật mà thôi. Đến cả tôn giả Xá-lợi-phất (Sāriputta) cũng không sở hữu. Tôn giả Sāriputta không thể xác định được sự già dặn của tâm hay khuynh hướng tâm của một chúng sanh để thuyết Pháp cho phù hợp với họ.
Tôn giả Sāriputta đã từng dạy một vị đệ tử quán tưởng sự nhàm chán nơi thân, và vị ấy thực hành như vậy trong suốt mùa mưa. Nhưng vị đệ tử không thể tiến triển, vì vậy Tôn giả Sāriputta đã đưa vị ấy đến gặp Đức Phật. Sau khi xem xét khuynh hướng tâm của vị Tỳ-khưu đó, Đức Phật đã dùng thần thông hóa ra một bông hoa sen màu vàng đỏ và nói vị Tỳ-khưu đó tập trung chú ý vào bông sen ấy cho đến khi vị ấy đạt được bốn tầng thiền định. Rồi Đức Phật làm cho bông hoa héo dần, và khi vị Tỳ-khưu xuất thiền, vị ấy nhận ra sự biến diệt. Vị ấy thấy sự bất ổn của cái thân này nhờ tự thân quán chiếu. Đến trước vị Tỳ-khưu ấy, Đức Phật thuyết một bài Pháp, và vị ấy đã chứng đạt đạo quả A-la-hán.
Vị Tỳ-khưu này đã từng là một thợ hoàn kim trong năm trăm kiếp, nên vị ấy thích những đối tượng đẹp đẽ và tinh tế. Vị ấy không hứng thú với quán chiếu tử thi. Tôn giả Sāriputta không biết khuynh hướng tâm của ông, nên đã đưa cho ông đối tượng hành thiền không thích hợp. Còn Đức Phật, Ngài biết khuynh hướng tâm của một chúng sanh từ những kiếp quá khứ, nên Ngài yêu cầu vị ấy định tâm trên đối tượng hành thiền có màu đỏ (lohitakammaṭṭhāna) sau khi đưa cho vị ấy bông hoa sen màu vàng đỏ. Nhờ lời dạy rất cụ thể của Đức Phật, vị ấy chứng ngộ được quả vị A-la-hán chỉ trong vài giờ.
Vì chỉ duy nhất Đức Phật Toàn giác mới sở hữu hai loại trí tuệ này, nên Dạ-xoa Sātāgiri đáp rằng: “Bậc đạo sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài có tuệ nhãn nhìn thấy tất cả các Pháp.”
Trong năm loại mắt đã nói, ngoại trừ nhục nhãn (tức con mắt thịt) thì không cần phải đề cập đặc biệt, nhưng bốn loại mắt còn lại đều liên quan đến sự hiểu biết trong giáo Pháp. Đức Phật có đầy đủ bốn loại ấy, nên Dạ-xoa Sātāgiri mới đáp như vậy.
Dạ-xoa Sātāgiri đã nói với Dạ-xoa Hemavata rằng, “Đức Phật đã diệt trừ tận gốc tham dục, tâm của Ngài luôn thanh tịnh, Ngài đã đoạn diệt tâm sân hận và ác ý bằng Bất Lai Đạo (anāgāmimagga)”. Điều này có nghĩa là tâm của Đức Phật không bao giờ bị vấy bẩn bởi cảm giác sân hận hay lo lắng.
Tôn giả Sāriputta được tán thán vì sự kham nhẫn của mình. Ngài không bao giờ tức giận. Một Bà-la-môn nọ không tin điều ấy. Ông ấy khẳng định rằng Tôn giả Sāriputta không tức giận vì không có ai khiêu khích sự tức giận của Ngài. Vì vậy, một ngày nọ, Tôn giả Sāriputta đang đi khất thực, Ông đã đập mạnh vào lưng của vị Thánh A-la-hán. Tôn giả Sāriputta thậm chí không còn ngoảnh lại nhìn, và tiếp tục điềm tĩnh bước đi. Chỉ lúc đó, ông Bà-la-môn tin là thật và xám hối với Tôn giả Sāriputta. Không chỉ Tôn giả Sāriputta, mà tất cả những vị Thánh A-la-hán đều thoát khỏi sân hận. Tuy nhiên, các vị ấy vẫn còn tiền khiên tật. Chỉ có Đức Phật mới diệt hết tất cả các tiền khiên tật, nên tâm của Ngài vô cùng thanh tịnh.
Dạ-xoa Sātāgiri nói rằng Đức Phật đã hoàn toàn diệt trừ si mê. Si mê có nghĩa là không hiểu Tứ Diệu Đế, tức là còn những tà kiến. Thí dụ, cho rằng đau khổ (dukkha) là hạnh phúc (sukha). Vì chúng sanh phải chịu sự sanh và diệt liên tục, nên không có gì gọi là dễ chịu hay bền vững. Vì vậy, tất cả chỉ là khổ, nhưng vì si mê, người ta lại nhẫm lẫn giữa đau khổ và hạnh phúc.
Bất cứ đối tượng nào được nhìn thấy, được nghe, ngửi, nếm, xúc chạm hay suy nghĩ, chúng chỉ là danh và sắc hay thân và tâm liên tục sanh rồi diệt. Tuy nhiên, si mê lại làm người ta coi những hiện tượng bất ổn này là đáng tin cậy và cảm thấy dễ chịu. Chính vì vậy mà người ta dính mắt với chúng. Sự dính mắt này là nguyên nhân dẫn tới đau khổ hay còn gọi tập đế (samudaya sacca), nhân dẫn tới sự hiện hữu. Sự chấm dứt của hiện hữu là sự thật, chân lý chấm dứt của đau khổ hay còn gọi là diệt đế (nirodha sacca). Nhưng bởi si mê chi phối, người ta không ưa thích nó, họ coi sự chấm dứt là cái chết cuối cùng, không có sự hưởng thụ ở đó.
Bố thí, giữ giới và tu tâm là nền tảng để chứng ngộ niết-bàn. Nhưng vì si mê khiến người ta không ưa thích chúng. Họ cho đó là điều khó khăn. Đối với hành thiền minh sát, họ cũng cho là vậy. Bản chất của si mê là khiến cho chúng ta sanh khởi tà kiến. Dạ-xoa Sātāgiri muốn nói rằng, Đức Phật đã diệt trừ được si mê, Ngài đã thoát khỏi si mê và vô minh.
Đức Phật Có Minh (Tuệ) Và Hạnh (Giới) Không?
Chuỗi câu hỏi tiếp theo của Dạ-xoa Hemavata như sau:
“Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, Đức Phật, bậc Đạo Sư của bạn, có đầy đủ Minh (vijjā) và Hạnh (caraṇa) không? Ngài đã thoát ra khỏi dòng phiền não chưa? Ngài đã thoát khỏi luân hồi chưa? Ngài đã đoạn trừ được sự tái sanh chưa?”
Để trả lời, Dạ-xoa Sātāgiri trả lời chắc chắn rằng Đức Phật đã đầy đủ mọi ân đức mà Dạ-xoa Hemavata nhắc đến.
Như đã đề cập phần trên, Kāḷī, con gái của một đại phú gia nghe lén cuộc đàm luận giữa hai vị Dạ-xoa mà chứng đắc đạo quả Nhập Lưu. Nàng trở thành bậc Thánh Nhập Lưu vì nghe được Ân Đức của Đức Phật. Trong khi hoan hỷ tôn kính ân đức ấy, nàng đã trải qua tất cả giai đoạn của tuệ minh sát, nhận thức được ba đặc tánh (vô thường, khổ, vô ngã) của thân và tâm. Sự chứng ngộ của nàng thật đáng để chú ý.
Dạ-xoa Sātāgiri nói rằng Đức Phật là bậc có trí tuệ viên mãn.
Vijjā có nghĩa là ‘minh’ hoặc ‘trí tuệ’. Có ba loại trí tuệ và tám loại trí tuệ khác, tùy theo phân loại. Đức Phật là bậc đã phát triển toàn vẹn tất cả các trí tuệ này.
“Hơn nữa, Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài có giới trong sạch, đó là những ân đức mở đường để chứng ngộ Niết-bàn.”
“Ngoài ra, Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài đã thoát khỏi phiền não bộc lưu hay dòng xoáy phiền não (kilesāsava), dục bộc lưu (kāmāsava), tà kiến bộc lưu (diṭṭhāsava) và vô minh bộc lưu (avijjāsava).”
“Bậc Đạo Sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài không còn tái sanh nữa; Ngài đã thoát khỏi sự tái sanh.”
Dạ-xoa Sātāgiri đã trả lời một cách chắc chắn, vì Dạ-xoa đã nghe Đức Phật tuyên bố trong Kinh Chuyển Pháp Luân rằng: Người đã thấy được Đạo Đế (magga sacca), tức là người ấy thấy được Bát Chánh Đạo. Trong đó, Chánh Kiến (sammā-diṭṭhi) và Chánh Tư Duy (sammā-saṅkappa) thuộc vào nhóm Tuệ, hay còn gọi là vijjā. Chánh ngữ, chánh nghiệp (sammā-kammanta) và Chánh mạng (sammā-ājīva) thuộc nhóm Giới. Chánh tinh tấn (sammā-vāyāma), chánh niệm (sammā-sati) và chánh định (sammā-samādhi) thuộc nhóm Định (samādhi magga). Giới và Định cùng với nhau tạo nên Hạnh (caraṇa).
Trong Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka Sutta), Đức Phật tuyên bố Ngài là Đấng Toàn Giác hay Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddha). Ngài là một vị Phật thực sự, Ngài có đầy đủ các ân đức đặc biệt gọi là Minh (vijjā) và Hạnh (caraṇa). Đó là lý do tại sao, Dạ-xoa Sātāgiri trả lời với sự tin tưởng chắc chắn. Dạ-xoa đã trả lời chắc chắn về phiền não bộc lưu, bởi vì, trong kinh Dhammacakka Sutta, Đức Phật đã nói rằng Ngài đã diệt trừ các nguyên nhân gây ra đau khổ (samudaya sacca), tức là tham ái. Với lời tuyên bố này, Ngài đã tự nhận mình là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác (Sammāsambuddha). Chính điều này đã làm cho Dạ-xoa Dạ-xoa Sātāgiri chắc chắn rằng, Ngài là một vị Phật thực sự.
Để trả lời cho câu hỏi về sự tái sanh của Đức Phật, trong bài kinh Dhammacakka Sutta, Đức Phật đã nói rằng, “Ta đã nhổ tận gốc các phiền não.” Như vậy, Đức Phật đã đoạn trừ hết tất cả các phiền não không còn dư sót. Đức Phật khẳng định rằng, kiếp hiện tại này là kiếp sống cuối cùng và Ngài không còn phải tái sanh trong tương lai nữa.
Ba Loại Trí Tuệ (Tam Minh) Đặc Biệt
Tùy thuộc vào sự phân loại, chúng ta có thể liệt kê ba (tam minh) hay tám loại trí tuệ (bát minh) đặc biệt này như sau.
Tam minh: Túc mạng minh, tức là tuệ biết về các kiếp trước (pubbenivāsa-ñāṇa), thiên nhãn minh (dibbacakkhu-ñāṇa), lậu tận minh, tức là tuệ diệt trừ các phiền não (āsavakkhaya-ñāṇa).
Túc mạng minh được Đức Bồ Tát chứng ngộ vào canh đầu tiên của đêm trăng tròn tháng năm, đêm mà Ngài chứng ngộ Phật Quả.
Thiên nhãn minh là đôi mắt của Chư Thiên. Thiên nhãn chỉ là sự ẩn dụ về bản chất trí tuệ đặc biệt của Ngài, bởi vì khả năng của nó vượt xa hơn Chư Thiên. Những ai có trí tuệ này, họ có thể nhìn thấy nhiều chúng sanh ở khoảng cách rất xa hay những đối tượng mà mắt người không thể nhìn thấy được. Họ có thể nhìn xuyên tường, xuyên núi non và các rào cản khác. Họ có thể nhìn thấy các chúng sanh trong khổ cảnh, như: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Họ có thể nhìn thấy toàn bộ cõi trời, cõi người.
Mắt người không thể nhìn thấy các vị Chư Thiên ở trong rừng, ở núi hay trên cây. Một số người nói rằng các vị thần như vậy là không có thật, vì họ không thấy các vị ấy. Nhưng mà họ lại sợ đứng dưới gốc cây hoặc ở những chỗ bị đồn là nơi có ma ám. Họ không dám cư xử xúc phạm đến các vị Thần. Các vị Dạ-xoa hay ngạ quỷ đôi khi cũng hiện hình để hù dọa, làm mọi người sợ hãi. Nhiều người nói rằng, họ nhìn thấy các vị ấy. Trong những vị thần làm họ sợ hãi, có một số là Dạ-xoa. Kinh Từ Bi có nhắc tới những vị Thần hiện ra nhiều hình dạng khác nhau để hù dọa những vị Tỳ-khưu, làm các vị ấy sợ hãi khi đến cư trú trong Rừng của họ. Những vị thần như vậy gọi là Thọ Thần (Thần Cây).
Thỉnh thoảng, ngạ quỷ cũng xuất hiện. Một lần, Vua Bình-sa-vương (Bimbisāra) cúng dường vật thực cho Đức Phật cùng Hội Chúng, rồi trở về cung điện. Đêm hôm đó, Ngạ quỷ đã ám Hoàng Cung làm Vua cảm thấy sợ hãi. Những chúng sanh này đã được Đức Phật Kassapa thọ ký rằng, họ sẽ được thoát khỏi cảnh giới ngạ quỷ nếu thốt lên “Sādhu”, “Lành thay!” khi Đức Vua chia Phước của mình khi ngài bố thí vật thực. Vì vậy, họ tụ tập quanh tu viện của Đức Phật và chờ đợi để thốt lên lời “Sādhu”. Nhưng Vua Bimbisāra đã hồi Cung và quên mất việc chia phước của mình. Vì vậy, những loài ngạ quỷ đó vào phòng của ngài để dọa ngài.
Khi Đức Vua kể lại câu chuyện này cho Đức Phật, Đức Phật nói với Đức Vua rằng, những ngạ quỷ này là thân quyến của Đức Vua cách đậy chín mươi hai kiếp và chúng đã dọa Đức Vua để nhắc nhở Ngài chia phần phước thiện của mình với chúng. Vì vậy, Đức Vua thỉnh mời Đức Phật cùng Hội Chúng đến Hoàng Cung vào hôm sau để làm bố thí và hồi hướng công đức của mình. Những ngạ quỷ đói đã thốt lên “Sādhu” và chúng đã nhận được phần vật thực trên Thiên Giới. Mắt thường không thể thấy những loại chúng sanh này, nhưng thiên nhãn thì có thể.
Một lần nọ, Tôn Giả Mục-kiền-liên (Moggallāna) và Tôn giả Lakkhaṇa đang từ đỉnh núi Linh Thứu đi xuống để vào làng khất thực, thì Tôn giả Moggallāna thấy rất nhiều loài ngạ quỷ. Một số chỉ là một bộ xương, một số chỉ là khối thịt, một số khác thì thân thể đang bị bốc cháy. Hai loại ngạ quỷ đầu tiên bị quạ, kên kên và diều hâu mổ, chúng la hét đau đớn và chạy khắp trên không trung. Tôn giả Moggallāna mỉm cười nghĩ rằng, Ngài đã thoát khỏi sự tái sanh vào khổ cảnh như vậy. Tôn giả Lakkhaṇa hỏi tại sao Ngài lại mỉm cười. Tôn giả Moggallāna đáp, “Tôi sẽ trả lời sau khi đi khất thực.”
Ngay sau khi thọ thực xong, Tôn giả Lakkhaṇa đã hỏi Tôn giả Moggallāna trước mặt Đức Phật rằng tại sao Ngài lại mỉm cười. Tôn giả Moggallāna đáp rằng, Ngài mỉm cười vì Ngài thấy cảnh tượng kỳ lạ của những con ma đói. Sau đó, Đức Phật nói, “Này các Tỳ-khưu, ta đã chứng đắc được thiên nhãn, vì vậy, ta có thể nhìn thấy những đối tượng mà mắt thường không thấy được. Vào đêm ta chứng đắc Phật Quả, khi ngồi trên bồ đoàn dưới gốc cây Bồ Đề, ta cũng đã nhìn thấy những chúng sanh ấy. Nhưng ta không nói, vì khi ta nói ra, những ai không tin, họ sẽ tạo nên nghiệp bất thiện.
Có một chúng sanh ngạ quỷ từng là người bán thịt trong thành Vương-Xá (Rājagaha). Người ấy bị rơi xuống địa ngục và chịu đau khổ hàng trăm ngàn năm trước khi tái sanh làm ngạ quỷ do quả dư sót của ác nghiệp. Moggallāna đã nói sự thật khi nhìn thấy những loài ngạ quỷ ấy.”
Đức Phật tiếp tục thuyết giảng hơn hai mươi loại ngạ quỷ. Một số loại ngạ quỷ phải chịu đau đớn vì kiếm, giáo, mũi tên và gai nhọn đâm thủng thân của chúng. Một số khác thì bị những cục sắt có kích thước khác nhau đâm xuyên qua thân và chúng chạy khắp nơi, la hét vì đau đớn tột cùng. Không một ai khác ở nơi đó có thể nghe hay nhìn thấy chúng, tôn giả Lakkhaṇa cũng vậy, vì Ngài chưa chứng đắc được thiên nhãn. Những chúng sanh khốn khổ như vậy không những ở trên núi Linh Thứu, mà chúng còn ở những nơi khác, ở nơi chúng đã làm những việc bất thiện trong kiếp trước. Chỉ có thiên nhãn mới thấy những chúng sanh đó, mắt người bình thường thì không thể.
Thiên nhãn không chỉ nhìn thấy ngạ quỷ mà còn có thể thấy nhiều chúng sanh khác, như: chúng sanh ở địa ngục, chư thiên và phạm thiên. Tôn giả Anuruddha có thể nhìn thấy một ngàn thế giới cùng một lúc bằng thiên nhãn của mình. Còn Đức Phật, Ngài có thể nhìn thấy vô số thế giới, không có giới hạn. Ngài chứng đắc được trí tuệ này vào đêm trăng tròn tháng năm, trước khi giác ngộ Phật Quả.
Lậu tận minh là khả năng đoạn tận mọi tham dục và các phiền não khác. Nó đồng nghĩa với trí tuệ trong bốn giai đoạn của Thánh Đạo: Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhất Lai Thánh Đạo, Bất Lai Thánh Đạo và A-la-hán Thánh Đạo.
Trong bốn trí tuệ này, Nhập Lưu Thánh Đạo đoạn diệt được các phiền não liên quan đến Tà Kiến (diṭṭhi). Nhất Lai Thánh Đạo đoạn diệt được các phiền não tham dục (kāma rāga) và ác ý (byāpāda) thô thiển. Bất Lai Thánh Đạo đoạn diệt được các phiền não tham dục và ác ý vi tế. Và A-la-hán Thánh Đạo đoạn diệt hết tất cả các phiền não còn sót lại. Đây gọi là bốn trí tuệ đoạn diệt phiền não. Chỉ có bậc Thánh A-la-hán mới có thể diệt trừ được hết tất cả mọi ô nhiễm nơi tâm, nên bậc thánh A-la-hán được gọi là Lậu Tận Minh (āsavakkhaya-ñāṇa). Đức Bồ Tát đã chứng đắc được trí tuệ này vào đêm trăng tròn tháng năm và giác ngộ thành Phật, trước khi bình minh lên.
Khi Đức Bồ Tát xuất khỏi Định bằng đề mục chánh niệm hơi thở, Ngài bắt đầu quán chiếu về Lý Duyên Khởi (paṭiccasamuppāda), tức là quán chiếu về sự sanh và diệt của năm thủ uẩn. Quan sát sự sanh và diệt của các uẩn tức là quán sát cái thấy, cái nghe, cái biết, v.v… mà các thiền sinh đang thực hành tại đây. Tuy nhiên, có một điểm khác biệt quan trọng nữa là Đức Bồ Tát nhập Định, đồng thời quán sát sự sanh và diệt của các hiện tượng bên trong, bên ngoài của thân. Ngài quan sát hết, không có bỏ sót đối tượng nào, đó là điểm khác biệt rất quan trọng. Tất nhiên, quá trình quan sát cũng tương tự nhau.
Khi Đức Bồ Tát tiếp tục hướng đến chứng ngộ Thánh Đạo bằng tuệ minh sát. Khi chứng đắc quả vị A-la-hán, Ngài chứng ngộ Niết-bàn, Phật Quả và có đầy đủ ân Đức của một Đức Phật Toàn Giác. Đức Phật đã tuyên bố điều này khi thuyết bài Pháp đầu tiên, Ngài tuyên bố rằng, Ngài là bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Đó là lý do tại sao Dạ-xoa Sātāgiri nói rằng, Đức Phật có Tam Minh (ba loại trí tuệ): Túc Mạng Minh (pubbenivāsa-ñāṇa), Thiên Nhãn Minh (dibbacakkhu-ñāṇa) và Lậu Tận Minh (āsavakkhaya-ñāṇa).
Tám Loại Trí Tuệ (Bát Minh) Đặc Biệt
Tam minh đầu tiên trong bát minh đã được giải thích. Năm loại còn lại là: Tuệ minh sát (vipassanā-ñāṇa), hóa tâm minh (manomayiddhi-ñāṇa), đa dạng minh (iddhividha-ñāṇa), tha tâm thông (cetopariya-ñāṇa) và thiên nhĩ (dibbasota-ñāṇa).
Tuệ Minh Sát
Tuệ minh sát được chứng đạt bằng cách quan sát ba đặc tánh (vô thường, khổ, vô ngã) của thân và tâm. Chúng không thể chứng ngộ bằng cách quan sát thông thường, mà chỉ có thể đạt được bằng cách quan sát chặt chẽ toàn bộ quá trình diễn ra của chúng, không bỏ sót một quá trình nào cả. Sự quán sát này phải giữ liên tục trong khi nhìn, nghe, ngửi, nếm, v.v…Khi các quá trình này đang diễn ra, hãy ghi nhận, quát sát mà không bỏ sót bất kỳ khoảnh khắc nào. Đức Phật đã dạy trong Kinh Đại Niệm Xứ (Mahāsatipaṭṭhāna) rằng:
“Khi đi, biết là ‘đang đi’.”
“Gacchantova gacchāmi’ ti, pajānāti.”
Điều này có nghĩa là một người nên quan sát yếu tố gió (vāyodhātu) khi đang di chuyển.
Đức Phật tiếp tục, “Khi ngồi, biết là ‘đang ngồi’.”
Điều này có nghĩa là khi thiền sinh tập trung trong lúc ngồi, thiền sinh sẽ quan sát những cảm giác về thân và tâm sanh khởi trong khi ngồi.
Cũng vậy, thiền sinh quan sát sự co, duỗi, chuyển động, v.v… khi chúng xảy ra. Sư đã hướng dẫn thiền sinh thực hành đơn giản, chỉ cần quan sát sự phồng lên và xẹp xuống xủa bụng khi ngồi thiền. Kinh Mahāsatipaṭṭhāna đã hướng dẫn đầy đủ cách quan sát sự chuyển động nơi thân, vì vậy, sự chỉ dẫn của Sư về việc quan sát phồng lên và xẹp xuống ở bụng trong khi ngồi là giống nhau.
Nếu thiền sinh nghĩ rằng có một khoảng cách giữa sự phồng lên và xẹp xuống của bụng, thiền sinh có thể niệm thầm trong tâm khi ngồi, thí dụ như “phồng, xẹp, ngồi”, “phồng, xẹp, ngồi” để quan sát cho liên tục. Đây là sự quan sát các hiện tượng nơi thân, hay còn gọi là niệm thân (kāyānupassanā).
Trong khi ngồi, nếu thiền sinh cảm thấy căng thẳng, nóng hoặc đau nơi thân, thiền sinh nên quan sát những cảm giác (vedanā) này. Đây gọi là niệm thọ (vedanānupassanā).
Nếu một suy nghĩ xuất hiện, thiền sinh nên ghi nhận nó, đó là niệm tâm (cittānupassanā).
Quan sát cái nghe, cái thấy, v.v… chúng chỉ là một loạt các hiện tượng. Đó gọi là niệm pháp (dhammānupassanā).
Cả bốn phương pháp này gọi là thiền tứ niệm xứ (satipaṭṭhāna).
Khi thiền sinh thực hành tứ niệm xứ, tâm của thiền sinh sẽ không còn lang thang (phóng tâm) nữa, mà sẽ tập trung (định) hoàn toàn vào các hành động khi chúng diễn ra mà không có bất kỳ sự thiếu sót nào. Như vậy, tâm sẽ được thanh lọc và thiền sinh đạt được sự thanh tịnh trong tâm hay còn gọi là Tâm Thanh Tịnh (cittavisuddhi).
Khi tâm thanh tịnh, tâm sẽ nhận thấy tâm quan sát và đối tượng quan sát là hai phần tách biệt. Khi thiền sinh quan sát sự phồng lên của bụng, bản thân sự phồng lên đó khác với tâm nhận biết sự phồng lên. Nguyên tắc tương tự cũng áp dụng cho sự xẹp xuống của bụng, sự co và duỗi các chi, v.v… Sự chuyển động và tâm ghi nhận trở nên tách rời, tức là sự chuyển động và tâm ghi nhận tách rời nhau. Nói cách khác, thiền sinh có thể phân biệt được thân và tâm. Giai đoạn tuệ giác này được gọi tuệ phân biệt danh sắc hay thân và tâm (nāmarūpa-pariccheda-ñāṇa). Đây là nền tảng đầu tiên của tuệ giác. Nếu không đạt được tuệ giác này thì các tuệ giác phía sau chẳng thể nào đạt được.
Tiếp tục thực hành, thiền sinh sẽ phân biệt được nguyên nhân và kết quả của các chuyển động. Thí dụ, chuyển động sanh lên vì tâm muốn di chuyển, cái biết sanh lên vì tâm muốn biết, cái thấy sanh lên vì tâm muốn thấy, v.v… Thiền sinh sẽ nhận ra nhân và quả vốn có trong thân và tâm, ngoài ra, không còn nguyên nhân nào khác. Sự nhận biết như vậy là tuệ phân biệt nhân duyên (paccaya-pariggaha-ñāṇa).
Sau đó, thiền sinh ghi nhận sự xuất hiện và biến mất của các chuyển động và cảm giác. Thí dụ, nếu cơn đau sanh lên, thiền sinh ghi nhận cơn đau khi nó diễn ra, như “đau, đau” cho đến khi cơn đau biến mất, ghi nhận toàn bộ quá trình từ đầu đến cuối. Việc ghi nhận những sự kiện liên tiếp đưa tới việc thấy được tam tướng. Những hiểu biết liên tiếp này gọi là tuệ minh sát.
Tâm ghi nhận trở nên sắc bén và nhanh hơn khi thiền sinh tiếp tục thực hành. Một thiền sinh bình thường có thể chứng đạt được tuệ minh sát này, riêng đối với Đức Phật thì việc đạt được tuệ minh sát là rất dễ dàng, vì Ngài đã chứng đắc được thiền định và tâm thanh tịnh.
Thần Thông
Hóa tâm minh (manomayiddhi-ñāṇa) và đa dạng minh (iddhividha-ñāṇa) là khả năng biến ra nhiều hình dạng. Manomayiddhi-ñāṇa có thể biến ra nhiều thân từ một thân, và iddhividha-ñāṇa có thể biến ra nhiều vật thể khác nhau. Iddhividha-ñāṇa có phạm vi rộng hơn, như: có khả năng biến không khí rắn lại như đất để vị ấy đi trên không trung. Hay làm cho cơ thể nhẹ như bông gòn để bay trong gió. Đất có thể biến thành nước để lặn vào bên trong. Hay tàng hình, hoặc tạo ra bất kỳ hình dạng nào. Những khả năng này dựa trên tứ thiền.
Tha Tâm Thông
Tha tâm thông (cetopariya-ñāṇa) cũng được sanh khởi dựa trên tứ thiền. Vị nào có được tuệ này có thể đọc được suy nghĩ của người khác, đồng thời cũng biết được suy nghĩ, hồi tưởng cũng như dự tính của họ sắp tới. Những suy nghĩ trong hiện tại cũng giống như một cuốn sách đang được mở ra đối với những vị có tha tâm thông. Sống với một vị như vậy có thể là một điều khó khăn nhưng nó lại là yếu tố giúp người khác kiềm chế thói xấu của mình. Đây là câu chuyện của Bà tín nữ Mātikamātā, một nữ nhân chứng đắc tha tâm thông.
Câu Chuyện Về Mātikamātā
Khi Đức Phật đang trú tại tu viện Jetavana ở Sāvatthi, sáu mươi vị Tỳ-khưu đã đến để xin Ngài chỉ dẫn hành thiền. Và sau đó, các vị ấy đi tìm một nơi thích hợp để định cư cho việc thực hành thiền. Các vị Tỳ-khưu đi đến một ngôi làng có tên là Mātika. Mātikamātā, mẹ của trưởng làng, đã thỉnh mời các vị ấy đến cư trú trong mùa mưa. Dân chúng đã xây dựng trú xá để cho sáu mươi vị tỳ-khưu an cư tại đó.
Các vị Tỳ-khưu tập hợp nhau lại và tuyên thệ rằng, “chúng ta không nên lơ là và thiếu thận trọng. Vì tám đại địa ngục giống như một cái hố lộ thiên. Chúng ta đã nhận được sự hướng dẫn hành thiền từ Đức Thế Tôn, vì vậy chúng ta cần phải tuân thủ đúng theo lời chỉ dạy của Ngài. Chúng ta không nên ở hai người một nơi, mà phải ở độc cư”. Vì vậy, mỗi vị bắt đầu độc cư hành thiền.
Một ngày nọ, Mātikamātā đã gửi một ít bơ, dầu và mật mía đến tu viện, nhưng khi bà đi cùng đoàn tùy tùng của mình vào buổi tối thì không thấy vị Tỳ-khưu nào cả. Những người biết chuyện kể với bà rằng các vị Tỳ-khưu sẽ đến nơi tụ họp khi có tín hiệu. Họ ra hiệu và các vị Tỳ-khưu rời khơi chỗ độc cư hành thiền và tập hợp lại vì nghĩ rằng, chắc có lẽ một ai trong số các vị ấy bị bệnh và cần được giúp đỡ.
Mātikamātā hiểu lầm tình hình và hỏi, “Các vị đã cãi nhau xong chưa?”
Các vị Tỳ-khưu nói rằng họ không cãi nhau, và khi được hỏi tại sao các vị ấy không tụ họp lại như khi đến nhà bà để khất thực, các vị Tỳ-khưu nói rằng mình đang sống độc cư để thực hành Sa-môn Pháp. Các vị ấy nói rằng Sa-môn Pháp giúp chứng đạt được Định và Tuệ.
Mātikamātā chưa bao giờ nghe nói về Sa-môn Pháp, và hỏi các vị Tỳ-khưu đó là gì. Các vị Tỳ-khưu giải thích rằng các bộ phận trong thân này cần được quán chiếu để thấy được sự hoại diệt của chúng. Bà hỏi liệu Pháp hành này chỉ dành riêng cho các vị Tỳ-khưu hay cho cả người tại gia cư sĩ. Các vị Tỳ-khưu đáp rằng, bất kỳ ai cũng có thể thực hành. Sau đó, Mātikamātā xin các vị Tỳ-khưu hướng dẫn cho Bà hành thiền.
Tất nhiên, thời gian hướng dẫn không quá một hoặc hai tiếng. Ngày nay, một số người nói rằng, chỉ có thể hành thiền sau khi đã hoàn thành lớp Vô Tỷ Pháp (Abhidhamma). Điều này, vô tình sẽ ngăn cản mọi người hành Thiền.
Mātikamātā về nhà và bắt đầu thực hành. Không ai biết bà mất bao nhiêu ngày để chứng ngộ đạo quả Bất Lai, nhưng bà đã chứng đắc trước các vị Tỳ-khưu. Đồng thời, Bà đắc được Tứ Tuệ Phân Tích (paṭisambhidā-ñāṇa) cùng tha tâm thông. Lúc đó bà thấy rằng, các vị Tỳ-khưu chưa thành tựu được bất kỳ tầng thiền định hay tuệ minh sát nào, bởi thức ăn không phù hợp. Vì vậy, bà cúng dường vật thực thích hợp cho mỗi vị Tỳ-khưu. Cuối cùng, các vị ấy cũng chứng đắc Đạo Quả A-la-hán trong mùa mưa đó. Từ câu chuyện này, chúng ta có thể thấy rằng thức ăn phù hợp cũng là một yếu tố quan trọng đối với thiền sinh.
Sau khi kết thúc an cư mùa mưa, sáu mươi vị Tỳ-khưu đi đến Kỳ-viên tự (Jetavana) để gặp Đức Phật. Các vị ấy tán thán Mātikamātā trước mặt Đức Phật rằng, bà tín nữ ấy biết tâm trí và đáp ứng được sự mong muốn của mình. Nhờ vậy mà các vị ấy hành thiền sớm đạt được Định và Tuệ. Nghe thấy vậy, một vị Tỳ-khưu nọ muốn đến ngôi làng ấy để hành thiền. Do đó, Ngài xin Đức Phật hướng dẫn cách hành thiền và đi đến đó.
Khi đến tu viện, Ngài nghĩ rằng, “Bà tín nữ này biết được suy nghĩ của người khác. Ta đi đường mệt mỏi và không thể quét dọn được tự viện. Sẽ thật tốt nếu bà ấy cử ai đó đến đây để quét dọn tự viện.” Bà tín nữ Mātikamātā biết suy nghĩ của vị Tỳ-khưu ấy nên đã cử một người đàn ông đến quét tu viện. Rồi vị Tỳ-khưu khát nước và muốn dùng nước mía. Bà tín nữ cũng biết và cho người mang qua dâng. Sáng hôm sau, vị ấy lại muốn dùng món rau thịt và cháo, bà tín nữ cũng đáp ứng.
Rồi, vị ấy muốn gặp bà tín nữ Mātikamātā, biết được ý của Ngài, bà đi đến gặp Ngài và mang theo vật thực để cúng dường. Sau khi thọ thực xong, vị Tỳ-khưu hỏi rằng, bà là Mātikamātā phải không? Bà đáp, “Đúng vậy, bạch Ngài”. Khi bà hỏi tại sao vị Tỳ-khưu hỏi về mình, vị ấy đáp rằng, ông làm vậy vì muốn chắc chắn rằng bà đọc được suy nghĩ của Ngài. Bà đáp khiêm tốn rằng, nhiều vị Tỳ-khưu cũng có khả năng như vậy. Rồi vị Tỳ-khưu hỏi tiếp, bà có biết được suy nghĩ của người khác không? Bà tín nữ Mātikamātā đáp, những ai có khả năng như vậy sẽ làm theo cách này hay cách khác. Những bậc cao thượng không có tâm kiêu mạn và không muốn tiết lộ khả năng của mình. Khi đối mặt với một câu hỏi trực tiếp, các vị ấy thường trả lời một cách gián tiếp.
Khi vị Tỳ-khưu biết rằng bà tín nữ Mātikamātā có tha tâm thông, Ngài cảm thấy không thoải mái khi ở trong tu viện do bà dâng cúng. Ngài nghĩ rằng, vì còn phàm nhân nên Ngài còn những suy nghĩ và mong cầu bất thiện. Bà tín nữ này sẽ biết suy nghĩ của Ngài, nếu bị khiển trách thì thật xấu hổ. Vì vậy, Ngài nói rằng, Ngài sẽ rời khỏi tu viện.
Bà tín nữ hỏi Ngài sẽ đi đâu, vị Tỳ-khưu đáp rằng Ngài sẽ về với Đức Phật. Bà tín nữ kính thỉnh Ngài ở lại, nhưng vị Tỳ-khưu vẫn từ chối do sợ hãi bà tín nữ.
Khi Đức Phật hỏi tại sao Ngài trở về, vị Tỳ-khưu đáp rằng Ngài sợ phải ở trong tu viện đó vì bà tín nữ Mātikamātā, bà có thể hiểu được suy nghĩ của Ngài, nhất là những suy nghĩ bất thiện. Đức Phật biết rằng tu viện của bà tín nữ Mātikamātā là nơi thích hợp cho các vị Tỳ-khưu như vậy, những vị có thói quen nuôi dưỡng những suy nghĩ và tầm cầu bất thiện. Với sự có mặt của bà tín nữ Mātikamātā, các vị Tỳ-khưu như vậy sẽ thu thúc suy nghĩ phóng túng của mình mà ép mình đạt được định tâm.
Một số thiền sinh cần một vị hướng dẫn thiền hiểu biết được suy nghĩ của họ. Khi thiền sinh được hướng dẫn ghi nhận các hoạt động của thân và tâm một cách có hệ thống, thì thiền sinh sẽ không còn bị lạc hướng bởi những suy nghĩ hay tưởng tượng. Một số thiền sinh lãng phí thời gian của mình bằng cách tán gẫu. Khi thiền sư hỏi họ, thì sự chểnh mảng của họ thường bị phát hiện. Nếu có thể hỏi họ kỹ hơn thì họ sẽ không dám nuôi dưỡng những suy nghĩ hay tưởng tưởng phóng túng nữa.
Đối với những vị Tỳ-khưu này, nơi mà một tín nữ có thể theo dõi được suy nghĩ của vị ấy thì đó quả là một nơi lý tưởng. Vì vậy, Đức Phật nói Ngài hãy quay lại tu viện. Đức Phật nói vị Tỳ-khưu hãy thu thúc cái tâm của mình và ghi nhận các trạng thái, hoạt động của tâm thì ông không có gì phải sợ hãi cả.
Đức Phật nói:
“Tâm manh động, khó nắm,
Theo các dục quay cuồng,
Lành thay, điều phục tâm,
Tâm thuần an lạc đến.”(Dhp v 35)
Tâm rất khó kiểm soát và hay chao động. Nếu không muốn suy nghĩ về điều gì thì nó sẽ suy nghĩ về điều đó. Nó không tuân theo bất kỳ quy tắc nào, cũng không thể bị đánh đập hay trừng phạt. Tâm cực kỳ nhanh nhẹn. Khi bắt đầu hành thiền, việc ghi nhận tâm đang lang thang (phóng tâm) là một điều khó khăn. Phóng tâm có mặt trong những suy nghĩ và mong cầu. Không giống với thân, tâm không thể bị xiềng xích hay giam cầm. Mặc dù thân đang trong trường thiền, nhưng tâm vẫn có thể đi lang thang bất cứ nơi nào nó muốn. Điều phục, rèn luyện tâm là một điều rất tốt, bởi vì khi tâm được điều phục thì hạnh phúc sẽ theo sau.
Ai cũng đều muốn có hạnh phúc, không một ai muốn đau khổ. Cách tốt nhất để có được hạnh phúc là rèn luyện cái tâm hoang vu. Rèn luyện tâm tức là áp dụng như lý tác ý (yoniso manasikāra), quan sát tất cả mọi trạng thái của tâm. Hạnh phúc sẽ đến với một người có sự thực hành rèn luyện tâm của mình.
Nếu một người có thể giữ tâm chơn chánh hướng về Phật, Pháp, Tăng, điều này có nghĩa là họ đang rèn luyện cái tâm của mình, người ấy sẽ tìm thấy hạnh phúc đang chờ đợi trong cõi trời và cõi người.
Tâm trở nên tốt đẹp hơn khi một người giữ gìn năm giới và tôn kính Phật, Pháp, Tăng. Tất nhiên, nếu năm giới được hành trì, giữ gìn đúng đắn thì sẽ được nhiều lợi ích hơn. Bên cạnh đó, nếu người đó còn làm thêm các việc công đức, như bố thí, trì giới và thiền tập, thì sẽ có nhiều lợi ích hơn nữa. Trong hai loại thiền, hạnh phúc có thể đạt được ở cõi sắc giới (rūpaloka) và vô sắc giới (arūpaloka) thông qua thiền chỉ (samatha bhāvanā), trong khi thiền minh sát sẽ đưa họ đến sự chứng ngộ Niết-bàn.
Việc ghi nhận các hiện tượng thay đổi một cách nhanh chóng không phải là điều dễ dàng đối với người mới bắt đầu. Các thiền sinh mới nên kiên trì ghi nhận cho đến khi thấy rõ ràng tiến trình sanh và diệt. Tâm rất khó rèn luyện, bởi nó liên tục phóng đi, khó nắm bắt và thu thúc. Sư sẽ mô tả tâm như sau:
“Tâm không thể bị kiểm soát và luôn thay đổi, nó phóng tới bất cứ nơi nào nó muốn. Nếu tâm bị bắt lại, bắt nó ghi nhận và quan sát các hoạt động của nó. Do đó, tâm sẽ được thuần hóa, được thu thúc, rồi hạnh phúc chắc chắn sẽ đến.”
Tâm không được thu thúc, nó sẽ phóng từ suy nghĩ này sang suy nghĩ khác một cách ngẫu nhiên. Những suy nghĩ lạc lỏng sẽ xuất hiện đối với những ai không ghi nhận các hoạt động của tâm. Nếu tâm tưởng tượng của một người được tự do, thì những suy nghĩ cũng như mong muốn thất thường sẽ tăng trưởng. Những suy nghĩ và mong muốn này có khả năng thúc đẩy người khác thực hiện những hành động bất thiện và gây ra đau khổ triền miên. Những suy nghĩ và mong muốn mất kiểm soát có thể dễ dàng dẫn một người rơi xuống đọa xứ hoặc địa ngục.
Có câu Pāḷi “cittena nīyate loko”, nó có nghĩa là “thế gian bị tâm dẫn dắt”9Saṃyuttanikāya, Citta Sutta, S. i. 39.. Nói cách khác, tâm dẫn dắt một người đến nhiều cõi khác nhau, nó có thể đưa một người lên cõi trời và đọa người đó xuống cõi khổ. Vì vậy, chúng ta phải rèn luyện cái tâm để nó đưa chúng ta lên cõi giới cao hơn.
Thực hành thiền bắt đầu bằng cách ghi nhận sự phồng lên và xẹp xuống của bụng, cách này rất hữu ích để nắm bắt lấy tâm và ngăn không cho nó chìm vào những mong cầu bất thiện. Nếu liên tục nỗ lực để kiểm soát bằng cách ghi nhận các hoạt động của tâm, nó sẽ trở nên nhu nguyến. Khi một thiền sinh đạt đến giai đoạn tuệ hành xả trí (saṅkhārupekkhā-ñāṇa), tâm sẽ được thuần hóa và nhu nhuyến đáng kể. Một cái tầm được thuần hóa và nhu nhuyến như vậy có thể dẫn một người đến giai đoạn tuệ giác tối thượng, tức là Đạo Quả A-la-hán.
Bây giờ, Sư sẽ quay lại câu chuyện của bà tín nữ Mātikamātā. Bà biết vị Tỳ-khưu đã quay trở lại nhờ vào tha tâm thông, nên đã chuẩn bị vật thực phù hợp để dâng lên khi vị ấy đến. Vị tỳ-khưu tiếp tục hành thiền, chỉ trong vài ngày, Ngài đã chứng đắc đạo quả A-la-hán.
Không chỉ có Đức Phật, mà một số cư sĩ như bà tín nữ Mātikamātā cũng có tha tâm thông. Khi đạt tới giai đoạn tuệ giác cao nhất, người ta có thể đoạn trừ những suy nghĩ bất thiện.
Không Có Bất Thiện Sanh Khởi Khi Ở Gần Người Có Tha Tâm Thông
Đúng là khi ở gần người có tha tâm thông, người ta không dám nuôi dưỡng bất kỳ những suy nghĩ bất thiện nào. Vào năm 1931, khi Sư được tám hạ, lúc đó Sư chưa thực hành thiền. Khi đó, Sư đang tìm kiếm một vị thiền sư để học thiền và Sư đã đến tu viện của Sayādaw U On Gaing, tại Đồi Shweyaungpya, gần ga xe lửa Donwun, ở Thaton. Sayādaw là vị thực hành thiền trong mộ địa. Ngài đã ngủ ở đó. Ngài đi từ nghĩa địa này đến nghĩa địa khác gần các ngôi làng mà Ngài đi khất thực.
Khi Sư đến tu viện của Sayādaw, Sư đã đi cùng đệ tử của Ngài. Không lâu sau, Sayādaw được dân làng thỉnh đến an trú tại một ngôi mộ của người mới chết. Xác chết đó là một nữ nhân mười lăm tuổi. Dân làng thỉnh Sayādaw an trú tại ngôi mộ để không bị các tà thuật sư cắt cổ tay xác chết đêm đi luyện ma thuật đen của họ.
Sayādaw và các đệ tử của Ngài, bao gồm luôn cả Sư, đã chấp nhận lời thỉnh cầu và đi đến nghĩa trang đó. Cả tám người đến nghĩa trang ngay trước khi mặt trời lặn. Những tấm tọa cụ được trải ra và có các bình nước uống tại đó. Khi tất cả đã ngồi xuống, Sư là vị ngồi gần ngôi mộ nhất, khoảng cách chỉ tầm một thước. Các vị Sư khác đều có kinh nghiệm, còn Sư thì không. Đó là lần đầu tiên Sư đến nghĩa trang, vì vậy Sư cảm thấy không thoải mái. Tuy nhiên, Sư không thể đổi chỗ cho bất kỳ vị Sư nào khác, vì Sư là đệ tử thấp nhất của Sayādaw. Các vị Sư khác đọc thuộc lòng bài kinh Mettasutta và nằm xuống ngủ. Sư không dám nằm xuống ngủ. Sư nhớ lại trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) có nhắc tới việc Ngạ Quỷ ám lấy ngôi mộ và ngồi gần xác chết. Sư phải ngồi im trong bốn đêm để kiểm soát, thu thúc suy nghĩ của mình vì Sư sợ rằng các vị Chư Thiên, Dạ-xoa trong nghĩa trang có thể biết được suy nghĩ của Sư và làm Sư sợ hãi. Vì vậy, suy nghĩ của Sư được giữ trong giới hạn. Từ kinh nghiệm này, Sư đoán rằng các vị Tỳ-khưu sống gần bà tín nữ Mātikamātā cũng kiểm soát tâm của mình và giữ cho nó trong sạch như vậy, chính vì vậy mà các vị ấy chứng đắc đạo quả A-la-hán một cách nhanh chóng.
Thiên Nhĩ
Đây là minh cuối cùng trong năm minh. Thiên nhãn có thể nhìn thấy tất cả các đối tượng lớn, nhỏ, xa, gần; còn thiên nhĩ (dibbasota) có thể nghe bất kỳ âm lượng, xa hay gần. Thiên nhĩ không chỉ nghe được âm thanh trong cõi người mà còn nghe được âm thanh trong cõi Chư Thiên (deva) hay Phạm Thiên (brahmā). Âm thanh từ các cõi khác cũng được nghe thấy.
Vì vậy, Dạ-xoa Sātāgiri đã nói với bạn Dạ-xoa Hemavata rằng, Đức Phật sở hữu đầy đủ bát minh. Ngoài ra, Dạ-xoa Sātāgiri còn nói rằng, “Bậc đạo sư của chúng ta, Đức Phật còn tròn đủ các hạnh (caraṇa) nữa.”
Mười Lăm Hạnh
Dạ-xoa Sātāgiri trả lời Dạ-xoa Hemavata khi được hỏi về mười lăm hạnh của Đức Phật như sau:
1. Thu thúc trong biệt biệt giải thoát giới (Pātimokkha saṃvara sīla)
Ý nghĩa thuật ngữ này là người giữ giới sẽ được giới bảo vệ. Giới này bảo vệ người đó khỏi những bất hạnh sanh khởi trong kiếp hiện tại và vị lai trong vòng luân hồi. Đối với cư sĩ tại gia, Pātimokkha saṃvara sīla có nghĩa là ngũ giới, còn đối với bậc xuất gia, thì đó là 227 giới (hoặc chín mươi tỷ giới nếu tính chi tiết). Nếu một người giữ gìn giới luật này, người đó sẽ thoát khỏi sự vu khống, khinh miệt hay sự trừng phạt của luật pháp. Hơn nữa, người đó sẽ thoát khỏi khổ cảnh.
2. Thu thúc các căn (indriya saṃvara sīla)
Giới này bảo vệ các căn (giác quan) khi nhìn, nghe, ngửi hoặc nếm khỏi sự ô nhiễm của ghen tị, tham lam, ác ý, chán nản, sân hận không phát sanh. Giới này chỉ trọn vẹn khi người ấy thực hành thiền. Nếu không thì họ chỉ giữ được một phần của giới.
3. Điều độ trong vật thực (bhojane mattaññutā)
Điều này đang nói về việc suy tư khi dùng vật thực, đồ ăn khất thực hay sử dụng dược phẩm. Thí dụ, khi dùng thức ăn, một người nên suy tư như Đức Phật đã dạy “Khi có thức ăn ngon, người ấy không nên vui thích với chúng; cũng vậy, khi có thức ăn dở, người ấy cũng chẳng nên thất vọng. Một người phải vượt qua được mọi cảm giác, dù là tốt hay xấu.”
Thức ăn không phải để hưởng thụ, cũng không phải để say sưa, cũng không phải để gia tăng sức mạnh và được xinh đẹp. Người ta chỉ dùng thức ăn để duy trì mạng sống, để thoát khỏi cơn đói. Một người phải có đầy đủ sức khỏe mới có thể tinh tấn thực hành lời giáo huấn của Đức Phật. Vì vậy, khi ăn, một người phải ăn vừa đủ. Cũng vậy, y phục cũng chỉ để tránh đi cái nóng, lạnh, bảo vệ thân khỏi sự tấn công của côn trùng.
4. Điều độ trong ngủ nghỉ (jāgariyānuyoga)
“Jāgariya” có nghĩa là “tỉnh táo”, còn “anuyoga” có nghĩa là “nỗ lực”. Nó ám chỉ cho sự điều độ trong ngủ nghỉ và giữ cho thân tâm được tỉnh táo. Tất nhiên, để được như vậy, người ấy phải thực hành thiền. Một người bận rộn quá nhiều công việc sẽ không đạt được mục đích. Có lần, một vị Sư nói với Sư rằng, khi vị ấy thức, tâm vị ấy thường chất chứa những suy nghĩ bất thiện, đến nỗi vị ấy ngủ càng lâu càng tốt. Những gì vị ấy nói có phần hợp lý. Nếu một người nuôi dưỡng những suy nghĩ bất thiện trong khi thức, người đó sẽ tích lũy thêm bất thiện. Vì vậy, có vẻ khá hợp lý khi nói rằng, một người ít ngủ có thể sẽ nuôi dưỡng những suy nghĩ bất thiện. Và điều này, cũng có nghĩa là một người phải tích cực hành thiền. Đức Phật dạy rằng, bằng cách nỗ lực đi kinh hành và ngồi thiền, thiền sinh có thể thoát khỏi những suy nghĩ ngăn cản chánh niệm và định tâm, do đó, tâm của thiền sinh sẽ được trong sạch.
Thiền sinh nên thanh lọc tâm trí của mình cho trong sạch, thoát khỏi tham dục cùng những uế nhiễm khác bằng cách ngồi thiền hay đi kinh hành. Tất nhiên, ngoài việc đi kinh hành và ngồi thiền thì có luôn cả đứng. Chỉ có một trong bốn tư thế còn lại là tư thế nằm, tư thế này không được khuyến khích. Thiền sinh nên giữ cho tâm tỉnh táo bằng cách thay đổi tư thế đi kinh hành, ngồi hoặc đôi khi đứng trong suốt cả ngày cho tới 10h tối. Sau đó, thiền sinh có thể nằm xuống ngủ trong bốn tiếng để duy trì sức khỏe. Tuy nhiên, thiền sinh nên tiếp tục hành thiền cho đến khi ngủ thiếp đi. Rồi thiền sinh thức dậy vào lúc hai giờ sáng và tiếp tục hành thiền. Một ngày được chia làm sáu phần, một phần để ngủ và năm phần còn lại để hành thiền. Đó gọi là điều độ trong ngủ nghỉ (jāgariyānuyoga).
5 – 8. Bốn thiền sắc giới (rūpa jhāna)
Có thể bao gồm luôn cả thiền vô sắc giới (arūpa jhāna), tức là tứ thiền.
9 – 10. Không cần giải thích thêm về tín và tấn.
Hai điều này nằm trong thập thiện nghiệp.
11 – 15. Sau đó là niệm (sati), tuệ (paññā), hổ thẹn về những việc làm bất thiện (hirī), sợ hãi những việc làm bất thiện (ottappa), đa văn (bāhusacca).
Đa văn trong bối cảnh ngày nay, có nghĩa là một người phải nghe và nhớ được những lời dạy của Đức Phật. Do đó, đa văn về Pháp, nghĩa là āgama suta, tức là ‘nghe’. Phân biệt và nhận ra được chân lý sau khi hành thiền được gọi là adhigama suta, tức là ‘thấy’. Hội tụ đủ hai điều này được gọi là bāhusacca, tức là đa văn. Một người nên có bao nhiêu sự hiểu biết?
Đối với một người cư sĩ bình thường, chỉ cần hiểu một câu kệ (gātha) là đủ. Đối với vị sẽ thuyết giảng cho nhiều người nghe, vị ấy hẳn phải nắm vững được nhiều lời dạy của Đức Phật. Có một câu hỏi được đặt ra là: “Tại sao, Đức Phật không học giáo Pháp từ vị khác, mà Ngài lại toàn hảo trong cái ‘nghe’ và cái ‘thấy’ như vậy?”
Vì Đức Phật đã được trang bị đầy đủ cái ‘thấy’. Ngài biết tất cả mọi thứ cần biết mà không cần phải học từ người khác. Ví như một người không cần phải học từ người khác về những đồ vật đang có trong nhà của mình. Vì Đức Phật biết tất cả các Pháp, nên sự hiểu biết của ngài là toàn hảo và tối thượng.
Dạ-xoa Sātāgiri tuyên bố một cách dứt khoát rằng, bậc Đạo sư của mình, Đức Phật, Ngài có đầy đủ tam minh, bát minh và mười lăm hạnh đầy đủ.
Như Sư đã nói phần trước, một thiếu nữ tên là Kāḷī đang ở trong nhà, khi nghe thấy cuộc đàm luận giữa hai vị Chư Thiên Dạ-xoa, nàng biết rằng đó là giọng nói của Chư Thiên nên đã chăm chú lắng nghe. Nàng Kāḷī có phước thiện nên nghe được tiếng nói của Chư thiên, một người bình thường thì không thể có được. Và nàng cũng hiểu được nội dung cuộc đàm luận của hai vị Chư Thiên nên nàng đã có lòng tôn kính Đức Phật.
Trí Tuệ Và Giới Hạnh Là Tối Thượng
Ở Ấn Độ đã từng và vẫn còn phân chia giai cấp. Giai cấp Bà-la-môn (Brāhmaṇa) và Sát-đế-lỵ (Khattiya) được xem là cao quý hơn Vệ-xá (Vessa) và Thủ-đà-la (Sudda). Ngoài ra, còn có sự phân chia trong các gia tộc. Tộc Kosiya và tộc Bhāradvāja thấp kém hơn tộc Gotama và tộc Moggallāna. Những người thuộc giai cấp thấp kém phải sống trong một ngôi làng riêng của họ ở ngoại thành. Khi họ đi vào trong thành phố, họ phải gõ nhẹ cây gậy xuống đất để giai cấp thượng đẳng không đụng tới họ. Trong câu chuyện về Mātaṅga, con gái của một trưởng giả, tên là Diṭṭhamaṅgalikā, tình cờ thấy người ăn xin là Mātaṅga và cho rằng đó là một điềm gở. Vì vậy, những người hầu của nàng đã đánh cho Mātaṅga một trận. Sự phân biệt giai cấp này rất rõ ràng vào thời đó, và vẫn còn ở Ấn Độ cho tới ngày nay.
Đây là một bằng chứng được kể lại. Cố trưởng lão Veluvun Sayādaw của thị trấn Bahan ở Rangoon đã tự mình chứng kiến điều đó. Trong thời gian cai trị của Anh, Ngài ở Ấn Độ và Srilanka trong một chuyến hành hương, Ngài đã được một thương nhân giàu có Ấn Độ đón tiếp như khách quý. Vị thương nhân ấy nói với Sayādaw rằng, “Ngài có thể ở nhà của tôi, nhưng tôi không thể ở chỗ Ngài ở được, tôi sẽ cho xây một chỗ đặc biệt dành riêng cho Ngài. Tôi cũng sẽ xây cho Ngài một phòng tắm đặc biệt, vì tôi không thể sử dụng phòng tắm mà Ngài đã sử dụng.”
Những điều này chỉ dành cho những người đến từ Miến Điện. Ở đất nước họ, một người thuộc giai cấp thấp không được vào đền thờ của những người giai cấp cao. Theo đức tin của họ, một người sanh ra trong giai cấp thấp không thể nào cải thiện vị thế xã hội của mình, và một người sanh ra trong giai cấp cao, dù có phạm bất cứ điều gì thì họ vẫn luôn cao quý. Những niềm tin như vậy được ghi lại trong Kinh sách của họ và cũng được đề cập trong kinh điển Phật Giáo. Ở Srilanka cũng có sự phân chia giai cấp, nhưng không quá nghiêm trọng. Một vị Sư sanh ra trong giai cấp cao không tỏ lòng tôn kính đối với một vị Sư sanh ra trong giai cấp thấp, và một vị Sư sanh ra trong giai cấp thấp có thể tỏ ra e ngại với những người tại gia sanh ra trong giai cấp cao. Nhưng ở Miến Điện thì không có sự phân biệt như vậy.
Trong số những người tại gia, giai cấp Sát-đế-lỵ (Khattiya) hay còn gọi là giai cấp thống trị được cho là có địa vị cao nhất. Những người thuộc giai cấp này sẽ không kết hôn với những ngoài giai cấp của họ và họ cho rằng giai cấp của họ là “thuần khiết”. Những người trong giai cấp này rất dũng cảm và trung thành với giai cấp, quốc gia của họ. Họ là những người nắm giữ quyền lực. Vì vậy, theo giai cấp thống trị, khattiya là giai cấp cao quý nhất, họ có sự hiểu biết cũng như cách ứng xử riêng.
Theo quan điểm thế gian, người thuộc giai cấp Khattiya là cao quý nhất, nhưng theo quan điểm trong Giáo Pháp, những ai có minh và hạnh mới là cao quý nhất. Phạm Thiên Sahampati đã tán thán Đức Phật như vậy, và Đức Phật đã đáp lời để xác minh điều ấy. Một người thuộc giai cấp cao quý chỉ cao quý khi họ còn sống, nhưng khi chết đi, họ không có gì để nương tựa cả. Tuy nhiên, người có minh và hạnh lại là người cao quý mãi mãi.
Mọi người kính trọng bất kỳ ai có thể bay lên không trung hay lặn xuống đất, đọc được suy nghĩ người khác, biết được kiếp sau của người chết. Họ kính trọng người có thiên nhãn và thiên nhĩ. Một số thiền sinh có định tâm cao, họ có thể phát triển những sức mạnh như vậy.
Một nữ nhân sống trên một hòn đảo ở quận Pakokku, sau khi hành thiền dưới sự hướng dẫn của Sư, cô được cho là người đã đạt được ‘thiên nhĩ và thiên nhãn.’ Một ngày nọ, em gái của cô bị mất đồ nữ trang, và cô đã nhờ chị gái tìm lại món đồ ấy. Nữ nhân này nhập thiền và thấy trong tâm rằng người giúp việc trong nhà đã lấy trộm đồ nữ trang và cất giấu trong gác xép nơi bếp của nhà người ấy. Cô em gái dẫn cảnh sát đến nhà người giúp việc và tìm kiếm, tài sản bị trộm cắp được tìm thấy theo sự gợi ý. Người ta nói rằng cảnh sát rất kinh ngạc về điều ấy.
Đây là một thí dụ trong thời hiện đại về những năng lực như vậy, những thí dụ như thế không phải là ít. Nếu có thể thể hiện được năng lực của Thắng Trí (abhiññāṇa), người ta sẽ có được sự tôn trọng cao nhất.
Trong số những trí tuệ này, trí tuệ quan trọng nhất là trí tuệ minh sát và trí tuệ diệt trừ phiền não. Khi đạt được tuệ minh sát, thiền sinh trở thành một vị Tiểu Nhập Lưu (cūla sotāpanna), nhưng nếu thiền sinh đạt được trí tuệ diệt trừ các phiền não, vị ấy sẽ chứng đạt đạo quả Nhập Lưu và thoát khỏi sự rơi xuống khổ cảnh. Vị ấy chắc chắn thoát khỏi cảnh giới khổ đau trong bảy kiếp, và trong thời gian đó, vị ấy sẽ chứng đạt đạo quả A-la-hán cùng Niết-bàn.
Những thuộc tính của Thiền Sinh
Những thiền sinh thực hành thiền minh sát ở đây, trước hết, phải có những đặc tánh của trí tuệ minh sát. Tất nhiên, những ai đạt tới Thánh Đạo, vị ấy đã có trí tuệ diệt trừ các phiền não. Trong mười lăm hạnh, thiền sinh phải có giới thu thúc các hành động về thân và tâm, đồng thời phải luôn cảnh giác. Vì vậy, những thiền sinh tại trung tâm thiền này đã có được thuộc tính của minh và hạnh. Các thiền sinh ấy đã trở nên cao quý theo lời dạy của Đức Phật. Điều này thực sự rất đáng hài lòng.
Về phần Đức Phật, Ngài đã đạt được đầy đủ tất cả các thuộc tính của minh và hạnh. Thuộc tính hay ân đức minh hạnh túc (vijjā caraṇa sampanno) của Đức Phật đã được giải thích đầy đủ.
Câu chuyện về Suppabuddha
Câu chuyện này liên quan đến Suppabuddha, một người đàn ông nghèo khổ sống vào thời Đức Phật. Ông bị cha mẹ bỏ rơi khi còn nhỏ và trở thành một người ăn xin. Là người vô gia cư, nên ông phải ngủ bên vệ đường. Ông bị mắc phải bệnh phong, làm đau đớn vào ban đêm, vì vậy, ông rên rỉ làm phiền giấc ngủ của người khác. Do đó, người ta gọi ông là “Suppabuddha – kẻ đánh thức những người đang ngủ.”
Một ngày nọ, trong khi đang đi xin ăn, Suppabuddha nhìn thấy một đám đông. Ông nghĩ rằng mình sẽ nhận được nhiều vật bố thí từ đám đông, ông đi đến và thấy đó là một đám đông đang lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Ông cũng muốn lắng nghe Pháp, nên ông lẳng lặng ngồi ở rìa đám đông. Đức Phật với Phật Nhãn nhìn thấy Suppabuddha có cơ hội chứng ngộ Pháp trong ngày hôm đó. Đức Phật tiếp tục thuyết Pháp, Ngài thuyết về bố thí và trì giới, khuyến dạy mọi người không sát sanh, trộm cắp, v.v… Suppabuddha quyết tâm tuân thủ giữ giới, vì vậy, ông đã thành tựu việc giữ giới. Khi Đức Phật thuyết về Tứ Diệu Đế, Suppabuddha đã quán chiếu và trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.
Sau khi buổi thuyết pháp kết thúc, Suppabuddha rời khỏi đám đông. Một lát sau, ông quay lại gặp Đức Phật. Đức Vua Trời Sakka muốn thử thách Suppabuddha, nên nói rằng, “Này Suppabuddha. Ông rất nghèo và bị bệnh phong. Ông không có ai để nương tựa. Nếu ông nghe lời tôi, tôi sẽ ban cho ông của cải lớn và chữa khỏi căn bệnh cho ông.”
Suppabuddha đáp, “Ngài là ai? Ngài có chỉ dẫn gì?”
Đức Vua trời nói, “Tôi là Đức Vua Trời. Vị Gotama thuyết pháp ấy không phải là một vị Phật thực sự. Các đệ tử của Ngài cũng chẳng phải là những vị Tỳ-khưu thực sự. Ông phải nói, ‘Tôi không quy y Phật; Tôi không quy y Pháp; Tôi không quy y Tăng.’”
Suppabuddha đáp, “Người không xứng đáng để làm Đức Vua Trời. Người không nên nói chuyện với ta. Tại sao người lại nói rằng ta rất nghèo và không có nơi nương tựa? Bây giờ ta đã là một người con đích thực của Đức Phật. Ta không nghèo. Ta giàu có và cao quý, bởi ta có đầy đủ bảy loại báu vật, đức tin (saddhā), giới (sīla), hổ thẹn những hành động bất thiện (hirī), ghê sợ những hành động bất thiện (ottappa), đa văn (bāhusacca), dứt bỏ (cāga), trí tuệ (paññā) như Đức Phật đã nói. Người không xứng đáng nói chuyện với ta.” Nói xong, Ngài đuổi Đức Vua Trời đế thích đi.
Suppabuddha đi đến gặp Đức Phật và nói với Ngài về sự chứng ngộ Pháp của mình. Cũng giống như các thiền sinh ngày nay, họ sẽ trình bày những kinh nghiệm của mình đối với vị thầy hướng dẫn. Sau khi Suppabuddha trình pháp với Đức Phật, vị ấy rời đi. Do quả của ác nghiệp, trên đường đi từ chỗ Đức Phật trở về, ông bị một con bò húc chết. Ông tái sanh làm vị Chư Thiên trên cõi trời Tam Thập Tam Thiên (Tāvatiṃsa) và vị Thiên Tử ấy có sức mạnh vượt trội hơn những thiên tử ở cõi Tāvatiṃsa, do bởi các vị Thiên Tử kia được tái sanh lên cõi trời nhờ vào các việc thiện đã làm ngoài Phật Giáo. Những thiên tử này bất mãn. Họ nói rằng Suppabuddha là một trong những người thấp kém khi còn là con người, nhưng giờ ông lại ở vị trí cao hơn họ. Đức Vua Trời đã giải thích lý do tại sao Suppabuddha đạt được vị trí cao hơn. Ngài nói rằng, trong kiếp sống làm người của thiên tử Suppabuddha, ông đã thành tựu bảy bổn phận của người hiền thiện, nên bây giờ ông hưởng những quả phước thiện của mình đã gieo.
Câu chuyện này minh họa cho việc một người trong đời sống thế tục, họ có thể ở vị trí thấp kém, nhưng họ đã đạt được nhiều thành tựu cao quý hơn người khác. Suppabuddha đã hoàn thành bảy bổn phận chỉ trong vài giờ trước khi chết, ông đã có được thuộc tính của minh và hạnh. Ông bị mắc bệnh phong là quả ác nghiệp do trong quá khứ ông gọi Đức Phật Độc Giác là người mắc bệnh phong. Ông bị một con bò húc chết vì trong một kiếp, ông đã cướp và sát hại một cô kỹ nữ. Khi nói đến ác nghiệp của Suppabuddha, Đức Phật khuyên thính chúng tránh những việc bất thiện như tránh ổ gà khi đi trên đường. Những thiền sinh nên ghi nhớ bài học này và tránh xa những việc làm bất thiện.
Sau đó, Dạ-xoa Hemavata hỏi, “Bậc đạo Sư của bạn, Đức Phật, có thoát khoải tham dục không? Ngài có thoát khỏi sự tái sanh chưa?”
Dạ-xoa Sātāgiri đáp: “Bậc đạo sư của chúng ta, Đức Phật, Ngài đã hoàn toàn thoát khỏi tham dục và không còn tái sanh nữa.”
Nếu một người không đoạn diệt được tham dục, người đó còn phải tái sanh, còn phải đối mặt với sanh, lão, bệnh và các loại đau khổ khác, dầu cho người đó có thể có minh và hạnh. Chỉ khi nào không còn sự hiện hữu nữa thì người ta mới thoát ra khỏi khổ đau. Hai điểm này rất quan trọng.
Kāḷī được tán thán vì lòng tin của nàng
Trở lại câu chuyện của Kāḷī, chúng ta thấy rằng nàng đã vô tình nghe được cuộc đàm luận của hai vị Da-xoa và rất hoan hỷ khi nghe về các ân đức của Phật. Khi tràn ngập hoan hỷ, nàng đã thực hành thiền định một cách tự nhiên cho đến khi chứng đắc đạo quả nhập lưu. Và nữ nhân ấy là mẹ của tôn giả Soṇakuṭikaṇṇa10Được Đức Phật tuyên bố là vị Đệ Nhất về hạnh khéo nói (A.i.24), Ngài đến từ vùng Tây Nam Avanti (gần Bhopal).. Kāḷī là nữ nhân đầu tiên đắc đạo quả Nhập Lưu. Nàng đã chứng ngộ Pháp sau khi tình cờ nghe được ân đức của Đức Phật, nên có lòng tin vững chắc nơi Ngài.
Dạ-xoa Hemavata cũng tin vào các ân đức của Phật và có lòng tôn kính Đức Phật. Vị ấy nói với bạn của mình, Dạ-xoa Sātāgiri rằng, “Tâm của Đức Phật hoàn toàn thanh tịnh. Mọi hành động về thân và tâm của ngài cũng không có lỗi lầm; Đức Phật là bậc có Minh Hạnh túc. Tôi tôn kính Ngài.”
Dạ-xoa Hemavata tán thán Đức Phật
Dạ-xoa Hemavata hoàn toàn hài lòng với câu trả lời của Dạ-xoa Sātāgiri về ân đức Minh Hạnh túc của Đức Phật. Vì vậy, Ngài nói, “Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, Đức Phật mà bạn tán thán thực sự rất thanh tịnh. Ngài không trộm cắp, không nói dối và không nói lời ác ý. Đức Phật có tất cả các ân đức của minh hạnh túc. Bạn đã tán thán Đức Phật một cách rất xứng đáng.”
Sau khi hoan hỷ với lời tán thán của Dạ-xoa Sātāgiri về Đức Phật, Dạ-xoa Hemavata thốt lên, “Sādhu! Sādhu!”, “Lành thay! Lành thay!”
Để đáp lại, Dạ-xoa Sātāgiri tán thán Dạ-xoa Hemavata đã tôn kính Đức Phật một cách thành tâm. Sau đó, Dạ-xoa Hemavata rủ Dạ-xoa Sātāgiri cùng đi đến đảnh lễ Đức Phật. Dạ-xoa Hemavata chấp nhận lời mời này. Dạ-xoa Hemavata nói, “Này bạn Dạ-xoa Sātāgiri, chúng ta hãy đi tới đảnh lễ Đức Phật, Ngài như con linh dương có tứ chi, gầy guộc. Ngài không có tham si, Ngài tiết độ trong ăn uống và độc cư hành thiền trong Rừng, Ngài thuộc dòng tộc Gotama.” Sau đó, Dạ-xoa quay sang hội chúng Chư Thiên Dạ-Xoa, mời họ đi cùng mình và người bạn là Dạ-xoa Sātāgiri.
Khi Dạ-xoa Hemavata nói rằng, Đức Phật như con linh dương có tứ chi, điều này có nghĩa là tứ chi của Đức Phật nhẵn nhụi. Khi Dạ-xoa nói rằng Đức Phật gầy guộc, điều này là sự ám chỉ đến sáu năm tu khổ hạnh của Đức Bồ Tát, trước khi giác ngộ thành Phật. Trong khi thực hành khổ hạnh, Bồ-tát trở nên gầy guộc, vì vậy, Ngài không thể lấy lại cân nặng trước đây chỉ sau hai tháng. Theo chú giải, không có vị phật nào bị thừa cân cả.
Theo các chú giải, tiết độ trong ăn uống của Đức Phật ý nói đến mỗi ngày Đức Phật chỉ dùng vật thực một lần. Khi đi xa, Ngài uống nước nhiều hơn.
Sau đó, Dạ-xoa Hemavata quay sang các Chư Thiên Dạ-xoa đang đi theo mình và nói, “Chúng ta hãy đến gặp Đức Phật, Ngài như một con Sư Tử, rất khó đến gần. Ngài sống độc cư, vì Ngài không có bạn đồng hành là những điều ô nhiễm. Ngài không có những hành động bất thiện, vì Ngài không vướng vào tham dục. Chúng ta hãy hỏi Ngài cách thoát khỏi bẫy của cái chết.”
Khi họ đến gặp Đức Phật, Dạ-xoa Hemavata xin phép được đặt câu hỏi. Vị ấy nói, “Bạch Đức Thế Tôn, bậc Giác Ngộ, bậc thuyết giảng Tứ Diệu Đế, bậc thông suốt các Pháp, bậc đã vượt ra khỏi mọi nguy hiểm, chúng con có thể hỏi Ngài một vài câu hỏi được không?”
Đây là cách giao tiếp phổ biến, lịch sự trong xã hội. Vào thời đó, một người muốn đặt câu hỏi đến các vị Vua, lãnh chúa hay những vị thông thái, cần phải được xin phép trước, chỉ những người ít học mới hỏi thẳng. Dạ-xoa Hemavata là một vị Tỳ-khưu uyên bác trước khi trở thành Chư Thiên Dạ-xoa, vì vậy, vị ấy biết về các phép lịch sự.
Chúng sinh khởi sinh như thế nào?
Khi Đức Phật đồng ý, Dạ-xoa Hemavata hỏi câu hỏi đầu tiên như sau:
“Bạch Đức Thế Tôn, chúng sanh (sattavā) được sanh khởi như thế nào? Thế giới (loka) của các chúng sanh có bạn đồng hành là gì? Chúng dính mắc với điều gì? Điều gì liên quan đến sự đau khổ trên thế giới mà các chúng sanh phải chịu đựng?”
Bốn câu hỏi này mang ý nghĩa rất sâu sắc. Một vị Chư Thiên bình thường không thể đặt ra những câu hỏi như vậy. Dạ-xoa Hemavata có thể hỏi như vậy là vì vị ấy là một vị Tỳ-khưu uyên bác thời Đức Phật Kassapa.
Chúng sanh sanh khởi từ sáu nhân
Đức Phật đáp, “Này Hemavata, một chúng sanh hay một thế giới khởi sanh khi hội tụ đủ sáu nhân. Thế giới của chúng sanh có sáu bạn đồng hành. Có sáu điều làm cho dính mắc. Và có sáu điều liên quan đến sự khổ trên thế giới mà các chúng sanh phải chịu đựng.”
Thế giới hay chúng sanh sanh khởi khi hội tụ đủ sáu nhân
Sáu nhân mà Đức Phật đề cập đến là sáu căn (āyatana). Chúng là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Đó là nội căn hay còn gọi là các căn bên trong. Nếu có sáu căn này, thì có sự sanh khởi của chúng sanh. Một chúng sanh cũng được gọi là một thế giới (loka). Tất cả con người đều có sáu căn này. Các bức tượng và hình ảnh tuy được vẽ lên sáu căn này, nhưng chúng không phải là chúng sanh hữu tình, nên chúng không có các căn.
Chỉ cần bốn hoặc năm căn, một người vẫn có thể tồn tại. Một người mù có năm căn còn lại. Cũng vậy, một người điếc hoặc không có khứu giác cũng có năm căn còn lại. Sư từng gặp một vị Tỳ-khưu không có bất kỳ các giác quan nào. Nếu lưỡi, thân và ý hiện hữu, thì có sự tồn tại của một chúng sanh hữu tình. Một số động vật biển như là san hô hay rong biển, chúng vẫn được xem là sanh vật. Chúng có thể tồn tại khi chỉ có lưỡi, thân và ý. Trong cõi sắc giới, chúng sanh có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nhưng không có ý. Còn trong cõi vô sắc, chúng sanh chỉ có ý mà không có bất kỳ các giác quan nào khác. Chúng ta có thể kết luận rằng, khi nào có tâm ý sanh khởi thì khi ấy có một chúng sanh. Tất nhiên, khi cả sáu căn này không còn nữa thì điều ấy không còn gì để nói. Sự sanh khởi của một chúng sanh khi có một, hai, ba, bốn hay năm căn, tối đa sáu căn là các nhân mà Đức Phật đã nhắc tới.
Vậy còn sáu giác quan bên trong (nội căn) thì sao?
Trong thế giới loài người, một tâm thức mới sẽ sanh khởi vào phôi thai (trứng đã được thụ tinh). Vì vậy, thân – tâm xuất hiện cùng nhau, và một chúng sanh xuất hiện. Sau khi thụ thai, mắt (vật chất) và nhãn thức (tâm) xuất hiện đồng thời. Cũng vậy, tai và nhĩ thức, mũi và tỷ thức, lưỡi và thiệt thức, thân và thân thức xuất hiện với nhau theo từng đôi một. Đối với tâm, thì suy nghĩ sẽ đi chung với nó. Khi đó, tất cả các căn này cùng phối hợp với nhau để tạo nên một chúng sanh.
Nếu không có mắt thì không có nhãn thức, không có tai thì không có nhĩ thức, không có mũi thì không có tỷ thức, không có lưỡi thì không có thiệt thức, không có thân thì không có thân thức, không có ý, thì không có chúng sanh trong thế giới loài người. Hãy nhìn một xác chết. Khi vừa mới chết, thì cái tử thi cũng như một người đang sống. Tuy nhiên, nó không có thức tánh. Vì vậy, một tử thi không phải là một chúng sanh. Nếu một người cắt tử ra, người đó không phạm tội giết người. Tuy nhiên, nếu có người đối xử bất kính với tử thi của một người có ân đức cao quý, thì người đó phạm vào bất thiện. Một số người vẫn còn luyến ái với tử thi, tất nhiên, tử thi không có bất kỳ giác quan nào, và do đó, không thể gọi nó là một chúng sanh.
Một số người nghĩ rằng cái chết diễn ra khi linh hồn thoát ra khỏi xác, nhưng thực tế không phải vậy. Nếu các căn (giác quan) vẫn còn hoạt động, thì người ấy vẫn còn sống. Vào khoảnh khắc cuối cùng, các giác quan này ngừng hoạt động, thì cái chết xảy ra. Một khi các căn bị dừng lại mà người ấy vẫn chưa thoát khỏi các ô nhiễm của phiền não, thì tiến trình tâm mới sẽ tái sanh vào một đối tượng vật chất thích hợp.
Tâm ở khoảnh khắc cuối cùng trong cuộc đời của một chúng sanh được gọi là tâm tử (cuti citta), và hiện tượng tâm mới sanh lên dựa trên một đối tượng vật chất mới được gọi là tâm tái tục (paṭisandhi citta). Hiện tượng tâm này là phạm vi của tâm hay còn gọi là ý xứ (manāyatana). Đồng thời, căn cứ vào đối tượng vật chất trong phạm vi của thân xúc hay còn gọi là thân xứ (kāyāyatana). Vì vậy, từ khi bắt đầu có một chúng sanh xuất hiện thì hai, ba, bốn, năm hay cả sáu căn sẽ xuất hiện. Với sự xuất hiện của các căn, thì mới có sự xuất hiện của một chúng sanh. Vì vậy, Đức Phật đã nói, “Nơi nào có sáu căn, nơi đó có thế giới.” Tuy nhiên, không thể nói rằng, một chúng sanh mới sanh khởi, hay chúng sanh trong quá khứ chuyển kiếp đến cõi mới. Trên thực tế, các căn mới sanh khởi là do sự tác động của nghiệp quá khứ. Không có sáu căn thì không thể có chúng sanh. Ví như một dòng sông chảy liên tục không có sự gián đoạn, dòng chảy cũ tiếp nối với dòng chảy mới. Cũng vậy, các căn cũng di chuyển liên tục không có sự gián đoạn. Người có tuệ giác không coi tiến trình này là tiến trình ổn định và lâu dài.
Một thiền sinh liên tục ghi nhận sự sanh – diệt liên tiếp của sáu căn, sẽ thấy được sự thay đổi không ngừng và nhận ra được sự vô thường. Thiền sinh tự mình biết rằng, sự tồn tại của con người chỉ là một chuỗi sự kiện sanh rồi diệt không ngừng, và sự thật thì không có gì là vĩnh viễn.
Sự liên kết của sáu căn
Đức Phật dạy rằng, thế giới hay một chúng sanh luôn liên kết với sáu căn. Sáu căn, bao gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý luôn luôn dính với sáu đối tượng giác quan (sáu trần) là sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Các đối tượng giác quan có thể là đối tượng hữu tri hay vô tri.
Chúng ta phân biệt được người nam hay người nữ là do bởi ngoại hình. Trên thực tế, mắt và nhãn thức liên kết với nhau. Sau khi mắt thấy đối tượng, tâm sở tiếp nhận hình ảnh ấy. Mặc dầu đối tượng thị giác không còn nữa, nhưng ấn tượng trên nhãn thức tâm vẫn còn. Điều này tạo nên sự nhận thức ở con người, đó là sự kết hợp giữa mắt hay còn gọi là nhãn xứ (cakkhāyatana), đối tượng thị giác hay còn gọi là sắc xứ (rūpāyatana) và sự hiểu biết về đối tượng đó hay còn gọi là ý xứ (manāyatana). Về cơ bản, không có đàn ông, đàn bà hay một đối tượng nào cả. Nếu một người có suy nghĩ sâu sắc và cẩn trọng, người ấy sẽ hiểu biết rằng, cái thấy chỉ là sự tương tác của các căn. Đối với thiền sinh có định được phát triển tốt, cái thấy như vậy là bình thường. Thiền sinh sẽ ghi nhận sự xuất hiện và biến mất (sanh diệt) ngay lập tức của các căn. Vì vậy, Đức Phật dạy rằng: “Nơi nào có sáu, nơi đó có thế giới, và thế giới có sự dính mắc với sáu.”
Nam hay nữ cũng có thể được phân biệt bằng cách nghe giọng nói. Tai, nhĩ thức và âm thanh kết hợp với nhau, tâm giữ lại sự nhận thức về âm thanh, dù cho đó là giọng nam hay nữ, dù cho âm thanh ấy là khó chịu hay dễ chịu đối với tai. Cuối cùng thì chẳng có ai sở hữu giọng nói cả. Đó chỉ là sự kết hợp của tai, nhãn thức, tâm và âm thanh. Thiền sinh hiển nhiên sẽ kinh nghiệm được vấn đề này.
Mũi và tỷ thức tự liên kết với tất cả các loại mùi, mùi của người nam, mùi của người nữ, mùi thơm của hoa, v.v… Tâm ghi nhận mùi. Ở đây, không chỉ có mùi hương mà cả chủ thể của mùi hương, dù là nam hay nữ cũng đều tạo ra ấn tượng trong tâm. Thí dụ, nếu một người hôn con của mình, thì không có người hôn hay người được hôn, đó chỉ là mũi, tỷ thức và sự phối hợp của mùi hương. Nói cách khác, mũi, tỷ thức, tâm và các mùi hương phối hợp với nhau.
Vị và thiệt thức, tạo nên ấn tượng về hương vị trong tâm. Người ăn sẽ nói rằng thức ăn này ngon, ngọt, béo hay bất cứ vị gì, vì tâm ghi nhận hương vị. Tuy nhiên, cuối cùng thì người ăn, thức ăn, hương vị và người nấu cũng không tồn tại. Khi thức ăn được nuốt xuống, hương vị biến mất và không có gì tồn tại lâu dài.
Thân và thân xúc là sự kết hợp của ba yếu tố: đất (pathavī), lửa hay còn gọi là nhiệt độ (tejo) và gió hay sự chuyển động (vāyo). Độ mịn là yếu tố đất; độ nóng hay lạnh là yếu tố nhiệt độ; áp lực hay sự chuyển động là yếu tố gió. Sự xúc chạm với thân thể người khác hay những đối tượng vô tri, như: quần áo, bàn ghế, giường tủ, v.v… là tạm thời. Thiền sinh phải ghi nhận sự xúc chạm này.
Đó là lý do tại sao Đức Phật khuyên dạy các đệ tử của mình ghi nhận là ‘đi, đi’ trong khi đi. Trên thực tế, đây là chỉ dẫn để cho thấy bản chất thật sự của yếu tố gió. Cũng vậy, Ngài chỉ cho các vị ấy ghi nhận mọi chuyển động như đứng, nằm hay ngồi. Tại sao lại có sự chỉ dạy này? Bởi vì, nếu không ghi nhận các hoạt động của thân, thiền sinh sẽ không nhận biết được các hiện tượng thuộc về thân. Sự vô minh sẽ sanh ra các phiền não, tạo nên những hành động thiện hay bất thiện. Khi ghi nhận các hoạt động của thân, thiền sinh phải chánh niệm về vô thường, khổ và vô ngã. Nếu ai hoàn toàn chánh niệm về tam tướng và phát triển được tuệ giác trong thánh đạo, người ấy sẽ hoàn toàn thoát khỏi những đau khổ do phiền não và tham dục gây ra.
Ở đây, Sư muốn chỉ ra rằng, những chuyển động phồng và xẹp của bụng nằm trong các hiện tượng thuộc về thân. Do đó, Sư hướng dẫn các đệ tử của mình phải ghi nhận sự chuyển động phồng xẹp của bụng khi họ bắt đầu hành thiền. Rất dễ thực hiện theo lời chỉ dẫn này. Khi thiền sinh đạt được định tâm hay sự tập trung, thiền sinh sẽ nhận ra các yếu tố trong tiến trình cứng và mềm của bụng, do đó, thiền sinh cũng sẽ thấy được tiến trình của thân và tâm. Rồi thiền sinh sẽ biết rõ rằng, không có một ‘cái tôi’ nào cả.
Cái tâm phân biệt người nam hay người nữ tự liên kết với sự suy nghĩ. Nói cách khác, tâm sở liên kết với các đối tượng của tâm. Người ta thường nói, “Tôi đang gặp ai đó” hay “Tôi đang nghĩ về ai đó,” v.v… Tuy nhiên, cuối cùng, chẳng có ai gặp hay chẳng có ai nghĩ về ai. Những suy nghĩ như vậy xảy ra liên tục nếu chúng ta tỉnh táo, và những suy nghĩ như thế thường không tốt đẹp. Mỗi khi một suy nghĩ xuất hiện, tâm liên kết với nó, nhiều người thích thú với những suy nghĩ như vậy, họ sẽ phẫn nộ khi được khuyên rằng nên kiểm soát những suy nghĩ ấy.
Một số vị hướng dẫn đệ tử hay thiền sinh của mình phải để cho tâm được tự do thay vì tập trung vào các đối tượng thiền định, vì các vị ấy nói rằng sự định tâm sẽ làm hạn chế tâm. Điều này trái ngược với lời chỉ dẫn của Đức Phật. Nếu tâm được phép tự do đi lang thang như lời khuyên của những vị thầy này, chắc chắn nó sẽ bị đắm chìm trong tham dục. Vì vậy, tuyên bố này trong bài kinh Hemavata Sutta chỉ ra rằng, tâm đồng sanh với các đối tượng giác quan hay sự suy nghĩ. Để tách tâm ra khỏi những suy nghĩ, một người phải thực hành thiền để đạt được định tâm. Nếu định tâm yếu, tâm sẽ bị phóng đi, liên kết với các đối tượng giác quan và xa rời đối tượng của thiền định.
Một số vị thầy kiêu mạn đổ lỗi cho việc thực hành thiền là nguyên nhân dẫn tới sự khó chịu nơi thân. Điều này làm mất đi giá trị lời Đức Phật dạy. Những ai làm theo lời khuyên của họ sẽ mất đi cơ hội có được sự hiểu biết thực sự, đồng thời, vô tình phạm phải hành động bất thiện nghiêm trọng đối với những bậc cao thượng.
Tinh tấn không phải là hành xác
Cách thực hành nào làm cho thân và tâm trở nên mệt mỏi thì cách ấy có thể gọi là thực hành tự hành xác (attakilamathānuyoga), nhưng hành thiền thì không có như vậy. Nếu cho rằng, các cảm giác sanh khởi nơi sáu căn sẽ không xuất hiện nếu thực hành tự hành xác, điều ấy là sai lầm. Sự tinh tấn về thân và tâm như vậy, gọi là tự hành xác. Tuy nhiên, nếu một người tinh tấn hết mình để đạt được trí tuệ, người ấy sẽ không phạm phải hành động bất thiện (tự hành xác). Ngay cả khi sự tinh tấn dẫn tới cái chết, thì đó cũng không phải là hành động bất thiện. Hãy xem xét thí dụ về một người nghiện thuốc phiện, người này kiêng hút thuốc phiện, mặc dầu, điều này sẽ dẫn tới sự đau đớn về mặt thể chất cho người ấy. Một người như vậy không phải là người phạm vào hành động bất thiện (tự hành xác). Đức Phật có quở trách một người hy sinh mạng sống để giữ gìn giới hạnh của mình không?
Cũng vậy, việc thu thúc, điều phục được tham dục trước một đối tượng sẽ làm người đó khó chịu về mặt thể chất. Đức Phật có quở trách một người như vậy không?
Tương tợ, một người không ăn sau giờ trưa để giữ gìn ngày trai giới thì vô tội. Một người làm công của ông Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika) quyết tâm kiêng ăn sau giờ trưa, mặc dầu ông ấy bị bệnh đau bao tử. Thế nên ông ấy đã đi đến mạng chung (chết). Đây không gọi là tự hành xác. Người làm công này đã tái sanh làm một vị thọ thần sau khi chết. Đức Phật tán thán hành động giữ giới kiêt quyết như vầy, “Các đệ tử của ta không phá giới ngay cả khi nguy hại đến tính mạng của mình.”
Lời khuyên dạy của Đức Phật
Đức Phật đã khuyên dạy các đệ tử của mình rằng: “Này các Tỳ-khưu, sự chứng đắc Giáo Pháp chỉ có thể đạt được bằng sự tinh tấn và lòng dũng cảm ngay cả khi chỉ còn lại một bộ xương. Các ngươi nên tinh tấn để chứng ngộ với sự quyết tâm và kiên trì”. Đây là lời khuyên dạy nhiệt thành của Đức Phật, đã được ghi lại trong Kinh Mahāgosiṅga:
“Này Xá-lợi-phất (Sāriputta)! Vị Tỳ-khưu ngồi xếp bằng, hành thiền sau khi ăn, quyết tâm không rời khỏi tư thế ấy trước khi đạt được sự giải thoát khỏi các phiền não, người ấy là người trang hoàng cả khu rừng Sāla ở Gosiṅga này.”11Majjhimanikāya i. 219.
Dựa trên lời nói này, người ta nên xóa bỏ những hoài nghi về việc phấn đấu hết mình trong thiền tập, đặc biệt là sự nỗ lực để đạt được trí tuệ. Thiện tín phải nhớ rằng tinh tấn hết mình trong thiền tập không thể coi là hành động hành xác. Thiện tín phải tránh xa những vị thầy giả mạo như vậy.
Sự buông thả trong tham dục và tự hành xác
Một cái tâm không được kiểm soát, để nó lang thang tự do gọi là sự buông thả trong tham dục (kāmasukhallikānuyoga). Chánh niệm là điều kiện tiên quyết để đạt được trí tuệ. Các vị Tỳ-khưu nên cố gắng thoát khỏi sự buông thả trong tham dục, bằng cách chánh niệm trong khi dùng vật thực. Các vị nên nhớ rằng thức ăn không phải là vật để hưởng thụ, mà để có sức khỏe cho việc hành thiền. Mặt khác, sự mệt mỏi về thân và tâm trong khi cố gắng để chứng đạt được trí tuệ, không gọi là hành động bất thiện (tự hành xác). Nhưng nếu đi lại trong tình trạng lõa thể (trần truồng), sưởi ấm cơ thể bằng lửa hay dưới ánh nắng mặt trời, ngâm mình trong nước lạnh cả ngày lại là sự hành xác.
Thân và tâm có thể bị mệt mỏi khi gìn giữ năm giới, tám giới hay mười giới, Sa-di giới, Tỳ-khưu giới không phải là hành xác. Bởi vì những người ấy đang đi trên con đường trung đạo. Sự nỗ lực về thân và tâm để đạt được định tâm không phải là tự hành xác. Người có nỗ lực như vậy là người đang đi trên trung đạo để chứng đạt định. Sự ghi nhận liên tục các hoạt động của thân và tâm không ngừng nghỉ để đạt được trí tuệ minh sát, trí tuệ đạo quả, không phải là tự hành xác. Bởi người ấy đang đi trên con đường trung đạo để chứng đạt tuệ.
Ba khía cạnh của Trung Đạo
Ba khía cạnh của Trung Đạo là Giới, Định và Tuệ. Giới thì không cần phải giải thích thêm nữa. Hai khía cạnh còn lại cần phải được phân biệt.
Định là để giữ cho tâm không chạy nhảy liên tục, để giữ tâm ở trạng thái ổn định. Samatha là sự tập trung vào một đối tượng nhất định, chẳng hạn như hơi thở vào và hơi thở ra. Ghi nhận hơi thở vào và hơi thở ra khi chúng chạm vào đầu mũi, được gọi là ānāpāna samatha bhāvanā. Khi tập trung vào hơi thở, thiền sinh dần dần đạt được Định (samādhi). Tương tợ quán tử thi cũng có thể giúp đạt được Định. Tuy nhiên, Định tâm này không liên quan đến sự phân biệt giữa thân và tâm. Bản thân nó cũng không mang lại trí tuệ sâu sắc về các hiện tượng thân và tâm cùng với ba đặc tánh (vô thường, khổ, vô ngã) của chúng. Samatha bhāvanā đơn thuần chỉ là để đạt được sự Định tâm. Đức Phật khuyên các đệ tử của mình kiểm soát tâm bằng samatha.
Thiền minh sát chỉ bắt đầu khi ta tập trung vào sáu căn và ghi nhận các hoạt động của chúng. Bản chất, đặc điểm của thân – tâm phải được quán sát, và sự sanh diệt diễn ra liên tiếp cần phải được ghi nhận. Đồng thời, ta phải quán chiếu sâu sắc về bản chất vô thường, khổ và vô ngã của tiến trình này. Bằng cách thấy rõ bản chất thực sự của thân và tâm, người ấy mới gọi là đang thực hành thiền minh sát. Những ai chưa có hiểu biết đúng đắn sẽ nghĩ rằng minh sát có nghĩa là ghi nhận một đối tượng. Nhưng họ không biết rằng, việc ghi nhận ấy bao gồm cả việc ghi nhận tất cả các hoạt động của thân và tâm, chúng vốn luôn thay đổi. Phải quán sát như vậy để thấy được ba đặc tánh của chúng. Vì vậy, Đức Phật đã nói rằng, bất cứ cái gì sanh khởi nơi sáu căn đều phải được ghi nhận và quán chiếu. Đức Phật đã dạy hàng ngàn bài Pháp để kiểm soát tâm thông qua minh sát. Chỉ thông qua minh sát, người ta mới có thể nhận ra sự liên hệ giữa các căn (giác quan), thức và đối tượng của các giác quan (trần). Những hành động như vậy tạo nên thế giới hãy các cõi hiện hữu.
Không được xâm phạm
Không được xâm phạm từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, thí dụ, lĩnh vực về trí sang lĩnh vực về giới. Một số người không thực sự hiểu biết bản chất của các căn, nhưng họ học được từ sách vở và các bài giảng. Từ kiến thức hời hợt đó, họ thường đưa ra những kết luận sai lầm. Họ lập luận rằng, trái bầu và con gà cũng được cấu tạo từ các hợp chất hữu cơ, thế nên chẳng có hành động bất thiện nào xảy ra khi cắt một trái bầu hay giết một con gà cả. Họ còn nói rằng, xi-rô là chất lỏng, thì rượu cũng vậy. Do đó, uống rượu không phải là hành động bất thiện, cũng giống như uống xi-rô vậy. Sự tiếp xúc giữa con người với nhau không phải là hành động bất thiện, bởi vì nó đơn thuần chỉ là sự tiếp xúc, cũng vậy, sự tiếp xúc giữa một người nam và một người nữ cũng không phải là hành động bất thiện. Họ nói rằng sự tiếp xúc có cùng bản chất như nhau, cũng như tiếp xúc với tấm ra trải giường hay một cái gối. Sự lập luận này cũng giống như lập luận của một vị Tỳ-khưu thời Đức Phật, tên là Ariṭṭha.
Tà kiến của Tôn giả Ariṭṭha
Tôn giả Ariṭṭha tự hỏi, tại sao những người tại gia thọ hưởng tham dục như vậy lại có thể đắc được đạo quả Nhập Lưu trong khi các vị Tỳ-khưu lại không được hưởng dục lạc như vậy. Mặc dầu các vị Tỳ-khưu được phép ngủ trên nệm êm, nhưng tại sao lại không được phép xúc chạm với nữ nhân, cảm giác ấy cũng như nhau thôi.
Vị ấy cho rằng việc tận hưởng sự xúc chạm vào nữ nhân không phải là hành động bất thiện. Các vị Tỳ-khưu khác khuyên vị ấy nên từ bỏ tà kiến này, nhưng vị ấy cho rằng nó phù hợp với lời Đức Phật dạy. Vì vậy, vị ấy được đưa tới gặp Đức Phật. Khi được Đức Phật hỏi, vị ấy nói rằng, đó là những gì Đức Phật đã dạy. Rồi Đức Phật nói rằng, Ngài chưa bao giờ giảng dạy như vậy và gọi tôn giả Ariṭṭha là người vô vọng, không thể đạt được đạo quả. Ngay cả khi đó, tôn giả Ariṭṭha vẫn không từ bỏ tà kiến của mình. Hiện nay, có những người như Ariṭṭha, Sư còn nghĩ họ là hậu duệ của Ariṭṭha, vẫn cho là niềm tin như vậy mới phù hợp với lời dạy của Đức Phật.
Nếu họ nói rằng, xi-rô về cơ bản cũng giống rượu, vì bản chất của chúng đều là chất lỏng, như thế thì rượu về cơ bản cũng giống nước tiểu. Vậy họ có uống nước tiểu không? Nếu một trái bầu về cơ bản giống với con gà, thì cũng giống con cái của họ, liệu họ có cắt con cái họ ra giống trái bầu hay con gà không? Nếu xúc chạm vào ga trải giường hay gối giống như sự xúc chạm của người nam đối với người nữ, liệu họ có thể sống cả đời với gối hay tấm ga không? Nếu chúng ta đặt câu hỏi như vậy thì câu trả lời đúng sẽ sớm được biết. Những vị thánh A-la-hán có trí tuệ biết rõ bản chất của các cảm giác (thọ) nên các Ngài không bao giờ vượt quá giới hạnh. Chỉ có những người có kiến thức hời hợt mới dung túng cho những hành động phá giới. Họ không chỉ nói như vậy, họ còn đi xa hơn và phạm phải những hành động bất thiện. Nếu họ làm như vậy, thì cũng giống như họ cầm một cục than hồng và nghĩ rằng nó không nóng. Hành động bất thiện sẽ không để họ trốn thoát. Nó sẽ mang lại hậu quả đáng sợ theo bản chất vốn có của nó. Còn nếu người nào cầm chặt cục than hồng trong tay, người ấy chắc chắn bị phỏng nặng.
Không được xâm phạm Samādhi
Một số người nói rằng Định không cần thiết, nếu chỉ suy nghĩ về hai chi của Tuệ, tức là Chánh Kiến và Chánh Tư Duy, thì không cần phải ghi nhận về sự sanh và diệt. Đây là sự xâm phạm vào phạm vi của Định (samādhi). Tốt nhất là chứng đắc được thiền định (jhāna samādhi), chí ít nhất cũng đạt Sát-na Định (khaṇika samādhi), hay cận Định (upacāra samādhi). Nếu không, người ấy không thể đạt được tuệ giác thực sự. Vì vậy, Đức Phật nói rằng, “Này các Tỳ-khưu, hãy phát triển Định, vị Tỳ-khưu nào có định sẽ biết được bản chất thực sự của đối tượng. Biết được bản chất thực sự của đối tượng là gì? Biết rằng mắt là vô thường, đối tượng của mắt là vô thường, và cái thấy cũng là vô thường.”
Đức Phật nói thêm rằng, một người không đạt được Chánh Kiến thì sẽ không có được Tuệ Giác, vì vậy, nếu không có định, rõ ràng người ấy cũng sẽ không đạt được tuệ giác, hay đạo tuệ và quả tuệ. Từ đó, ta có thể kết luận rằng, trí tuệ không có Định (samādhi) thì không có tuệ minh sát, mà không có tuệ minh sát thì không thể chứng ngộ được Niết-bàn. Sự hiểu biết hời hợt này không chỉ có ở cư sĩ, mà có cả ở những người không phải cư sĩ nhưng có nghiên cứu về Vi Diệu Pháp (Abhidhamma). Do đó, điều quan trọng là phải cố gắng để chứng đạt được tuệ minh sát bằng cách ghi nhận liên tục các căn thông qua vipassanā.
Sáu căn tạo nên con người
Đối với câu hỏi về sự sanh khởi của thế giới, Đức Phật đáp rằng sự hiện hữu, tồn tại của thế giới dựa trên sáu căn. Điều đó có nghĩa là thế giới của chúng sanh sanh khởi dựa vào sáu căn.
Khổ đau trong Sáu căn
Câu hỏi “Tác hại của sáu căn làm chúng sanh đau khổ như thế nào?”
Đức Phật đáp, chúng sanh chịu đau khổ bởi do sáu căn gây ra. Ngài nói rằng, chúng sanh chịu khổ vì họ cố gắng thõa mãn sáu căn này. Theo chú giải của bài kinh, các cảm giác phát sanh từ bên ngoài tấn công vào sáu căn. Theo Sư, các cảm giác như thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, suy nghĩ sẽ mời gọi tham dục và khiến chúng sanh đau khổ. Sư nghĩ đó là lời giải thích hay hơn.
Con người cố gắng để có được những thứ đáng hài lòng dù là hữu hình hay vô hình. Nếu không có được, họ sẽ tiếp tục tìm kiếm cho đến khi có được. Khi họ có được rồi, họ lại cố gắng giữ chúng, không cho chúng bị mất hay bị phá hủy. Vì vậy, con người liên tục cố gắng và liên tục đau khổ. Cũng vậy, họ mong muốn được trải nghiệm những cảm giác đáng hài lòng, như âm thanh ngọt ngào, hương vị thơm ngon, những xúc chạm thích ý và họ nuôi dưỡng những mong cầu và suy nghĩ thương yêu. Họ cố gắng giữ cho mình khỏe mạnh và sống lâu để có thể tận hưởng những dục lạc này lâu hơn. Càng cố gắng, họ càng cảm thấy lo lắng cho mình và cho người khác. Dù họ có cố gắng đạt được và duy trì những dục lạc này, nhưng mọi thứ không diễn ra như họ mong muốn. Những dục lạc ấy đến rồi cuối cùng cũng hoại diệt và biến mất. Rồi con người phải chịu đau khổ rất nhiều, họ khổ thân lẫn khổ tâm. Điều này không chỉ có ở con người, Chư Thiên cũng vậy, những vị ấy cũng có mục đích tương tự. Đừng tưởng rằng một người được tái sanh làm Chư Thiên do nhờ phước báu của mình, rồi họ sẽ ở đó một cách mãn nguyện. Họ không bao giờ hài lòng với những gì mình có và sẽ luôn khát khao nhiều hơn nữa, có những thứ tốt hơn nữa. Để có được nhiều hơn, họ phải nỗ lực hơn và chính những nỗ lực đó sẽ dẫn tới đau khổ.
Đau khổ là nguyên nhân dẫn đến những hành động tà kiến liên quan đến việc giết hại chúng sanh để cúng tế với suy nghĩ rằng việc ấy sẽ mang lại công đức (phước báu). Nếu một người sát sanh, trộm cắp hoặc làm những việc làm bất thiện để cầu mong được hạnh phúc và giàu sang, thì họ sẽ nhận lấy sự đau khổ do những hành động mà họ làm. Người đó thậm chí còn rơi bị vào đọa xứ.
Việc tận hưởng các khoái lạc giác quan không mang lại bất kỳ sự hạnh phúc nào; nó chỉ mang lại sự đau khổ. Ví như một người tiếp tục ăn đồ ăn ngon sau khi đã no đủ. Lúc đầu, món ngon ấy đem lại sự vừa lòng, thích ý, nhưng sau đó, sự hài lòng ấy sẽ giảm sút và đau khổ sẽ theo sau. Đối với các giác quan cũng như thế ấy. Nếu một người liên tục nhìn vào những thứ tốt đẹp, người đó sẽ thấy chán, sau đó, đau khổ và ghê tởm sẽ xuất hiện. Người ta không thể tận hưởng cảm giác vừa lòng mãi được, đau khổ luôn xuất hiện theo sau, một khi họ đã no đủ. Hạnh phúc, sự hài lòng chỉ là tạm thời và nó có thể che đậy nỗi đau tìm tàng chỉ trong một thời gian giới hạn. Trên thực tế, phấn đấu, nỗ lực để mong cầu dục lạc là điều đau khổ.
Con đường Giải Thoát là gì?
Dạ-xoa Hemavata nói, “Bạch Thế Tôn, chúng sanh hay thế gian phải chịu đau khổ. Vậy do sự dính mắc hay chấp thủ (upādāna) làm cho họ tin rằng ‘Đây là tôi, đây là của tôi?’ Con đường giải thoát là gì? Bạch Đức Thế Tôn, xin Thế Tôn hãy nói cho con biết, làm thế nào để giải thoát bản thân khỏi sự đau khổ?”
Câu hỏi đầu tiên của Dạ-xoa Hemavata hỏi Đức Phật liên quan đến sự thật về cái khổ hay còn gọi là khổ đế (dukkha sacca). Và câu hỏi thứ hai của vị ấy là về con đường giải thoát bản thân khỏi đau khổ.
Đức Phật đáp, “Này Hemavata, tâm tạo ra tham dục và dẫn đến sự dính mắc cho các căn.”
Năm sợi dây tham dục (kāmaguṇa) là sự tham dục trong sắc, thanh, hương, vị, xúc khởi sanh từ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Tâm cũng bị cuốn theo những dòng suy nghĩ và cảm xúc.
Đối với những người không thực hành thiền minh sát, bất kỳ đối tượng nào họ nhìn thấy, họ đều có ý niệm là ‘mắt tôi thấy’. Những người trẻ, họ có thể nhìn mọi vật rõ ràng, còn những người già thì than thở về thị lực bị suy giảm của mình. Cả người trẻ lẫn người già, họ đều cho rằng mắt là tài sản riêng của họ. Ý niệm về bản ngã này liên quan đến tất cả các bộ phận nơi thân, họ cho rằng đó là tài sản riêng của mình. Quan điểm này mở rộng đến sự nhận thức về người nam, người nữ ‘thân này là của tôi. Tôi là cái thân này.’ Nhìn một người có sắc tướng xinh đẹp và ưa thích họ, muốn sở hữu, muốn có được, nghĩ rằng ‘Đây là của tôi, của riêng tôi’ v.v… tất cả những điều này là sản phẩm của tâm.
Thí dụ như một người đi chợ, họ nhìn thấy quần áo đang được bày bán, họ chọn những bộ đồ họ thích và mua nó, rồi nghĩ rằng chúng là của riêng họ. Cũng vậy, một người khi nhìn một người khác, say mê vẻ đẹp của họ, mong muốn có được và sở hữu lấy người ấy. Ba đối tượng là mắt, đối tượng được thấy, nhãn thức gây ra sự chấp thủ, dính mắc, ‘cái này là của tôi, của riêng tôi, tôi sở hữu nó.’
Sự dính mắc này cũng áp dụng cho sự nghe, ngửi, nếm hay xúc chạm. Mọi thứ đều có nguồn gốc từ sự dính mắc. Thí dụ, nếu một người chạm vào một người khác, nhận biết được sự xúc chạm, thì họ nói rằng, ‘Tôi đụng (chạm) vào người kia’. Nếu người ta cảm thấy nóng, lạnh hoặc tê cứng ở chân tay, họ nói rằng ‘Tôi cảm thấy nóng’ hay ‘Tôi cảm thấy bị tê cứng chân tay’.
Vì vậy, Đức Phật nói rằng: “Này Hemavata, trên thế gian này, năm sợi dây tham dục (kāmaguṇa) và ý xứ (manāyatana), hay sáu căn làm nhân sanh ái dục. Và nếu ái dục ấy được đoạn trừ, thì sẽ giải thoát được sự đau khổ.”
Nguyên nhân dẫn tới sự dính mắc là do vô minh. Vô minh này cũng giống như điên loạn. Một người bị điên loạn thì tâm trí không được ổn định, họ không thể phân biệt được điều tốt với điều xấu, điều có giá trị với điều vô giá trị, điều hữu ích và vô ích, họ lại nắm giữ những điều vô dụng làm của riêng. Chắc hẳn tất cả các thiện tín đã từng thấy những người điên loạn như vậy. Những ai có tà kiến cũng đều có những biểu hiện như vậy.
Vào cuối thế chiến thứ hai, những người tiên đoán được sự kết thúc sắp diễn ra của cuộc chiếm đóng Nhật Bản tại Miến Điện, họ đã đổi những tờ tiền Nhật sắp mất giá trị để lấy những thứ khác. Những người không có tầm nhìn xa như vậy đã nhận những tờ tiền ấy với hy vọng chúng vẫn còn có giá trị. Một, hai ngày sau, đã có một sự thay đổi. Những tờ tiền Nhật Bản trở nên vô giá trị và những kẻ tích trữ phải gánh chịu hậu quả đó.
Khi còn trẻ, Sư đã gặp những người đổ đầy cát vào những chiếc bình và chờ chúng biến thành vàng theo lời tiên đoán của vị pháp sư lừa đảo mà họ đã tin tưởng. Những người như vậy thật si mê, họ không phân biệt được đâu là thật và đâu là giả, đâu là điều tốt còn đâu là điều xấu. Một khi không còn si mê, họ sẽ nhận thấy rằng, những thứ mà họ đã từng trân trọng sẽ trở nên vô giá.
Vào thời Đức Phật, Paṭācārā là nữ nhân bị điên loạn. Nàng chạy khắp nơi mà không một mảnh vải che thân, vì bị điên, nên nàng nghĩ những gì nàng làm là đúng đắn. Khi nàng đến gần Đức Phật, Ngài đã làm cho nàng thức tỉnh với lời thuyết pháp. Nàng nhận ra hoàn cảnh của mình ngay lập tức và cuối cùng chứng đắc đạo quả A-la-hán. Paṭācārā12Câu chuyện của vị ấy được kể trong câu kệ Pháp Cú 113: “Dù sống đến trăm năm, Không thấy pháp sanh diệt, Chẳng bằng sống một ngày, Thấy được pháp sanh diệt”. nhận thức được Đức Phật đang nhắc nhở mình trong tình trạng lõa thể. Bà đã thức tỉnh và nhận lấy một tấm khăn choàng từ một người gần đó, quấn lại, ngồi xuống nghe lời thuyết pháp của Đức Phật. Trong khi lắng nghe bài thuyết Pháp, bà chứng đắc đạo quả nhập lưu. Đây là một thí dụ về việc đạt được chánh kiến và diệt trừ được tà kiến.
Những người mà Sư vừa nhắc đến, các vị ấy đã phát hiện ra rằng những điều mà họ từng trân trọng, rốt cuộc, chỉ là những điều không có giá trị, nhưng mà họ vẫn không thể loại bỏ chúng. Những ai luôn chánh niệm về sự thay đổi liên tục của sanh và diệt, thì họ sẽ không còn chấp trước vào những thứ mà người không có chánh niệm luôn coi trọng.
Hướng dẫn cho Tôn giả Mālukyaputta
Đức Phật hỏi Tôn giả Mālukyaputta:
“Này Mālukyaputta, ngươi có tham ái với các hình tướng mà ngươi chưa từng thấy, với các hình tướng mà bây giờ ngươi cũng không thấy, hay những hình tướng mà ngươi không muốn thấy không?”
“Bạch Đức Thế Tôn, điều ấy là không thể”, Tôn giả Mālukyaputta đáp lời.
Bây giờ, nếu Sư hỏi thiện tín câu hỏi mà Đức Phật đã hỏi Tôn giả Mālukyaputta, tất cả các thiện tín cũng sẽ trả lời câu hỏi ấy y như Ngài. Một người sẽ không có bất kỳ cảm giác thương hay ghét nào đối với người mà họ không mong đợi để thấy, phải không? Có rất nhiều người như vậy ở trong làng, thị trấn, thành phố, quốc gia khác, và thiện tín sẽ không bao giờ có bất kỳ cảm giác thương hay ghét đối với họ. Thiện tín sẽ không có bất kỳ sự dính mắc hay tham ái nào vào những đối tượng ấy. Những ô nhiễm, phiền não không phát sanh từ những điều vô hình. Đây là điểm cần phải lưu ý.
Trong trường hợp đó, người ta không cần phải diệt trừ những phiền não bằng trí tuệ nữa, bởi không thấy, nên không có phiền não phát sanh trong họ. Vì vậy, người ấy không phạm vào bất thiện hay tạo nên bất kỳ công đức nào. Tuy nhiên, đối với những đối tượng được thấy, phiền não phát sanh lên trong khi nhìn thấy và sau khi đã nhìn thấy, bởi vì hình ảnh đã thấy được lưu trữ trong tâm. Khi suy ngẫm hoặc nhớ lại, phiền não sẽ tái diễn. Những ký ức được lưu trữ này được gọi là khuynh hướng tiềm miên (anusaya). Cần phải nhổ tận gốc chúng bằng trí tuệ.
Đức Phật đã dạy Tôn giả Mālukyaputta rằng: “diṭṭhe diṭṭha mattaṃ bhavissati”.
“Trong cái thấy chỉ là cái thấy – hãy chú tâm vào trong hiện tại.”
Loại bỏ Tham ái Xảy ra trong khi Thấy
Theo lời chỉ dẫn của Đức Phật dành cho Tôn giả Mālukyaputta, một người phải ghi nhận những gì được thấy, chỉ có vậy, không hơn không kém. Đó là ý chung của lời chỉ dẫn. Tuy nhiên, trong quá trình hành thiền, người ta phải ghi nhận sự khởi đầu của bất kỳ quá trình nào khi nó đang diễn ra. Theo đó, người ta phải ghi nhận các hiện tượng đó. Thí dụ, khi đang đi, có quá trình nhấc chân lên, bước và đạp chân xuống, thiền sinh sẽ nhận ra rằng mỗi quá trình đều sanh lên rồi diệt đi một cách mau lẹ (nhanh chóng). Chỉ những ai có chánh niệm mới có thể thấy rõ ràng một chuỗi hành động nhanh chóng này. Nếu thiền sinh tập trung vào từng hiện tượng một cách riêng biệt, thiền sinh sẽ cảm thấy không có bất kỳ sự dính mắc hay ham muốn nào, do đó, tham dục sẽ chấm dứt.
Trong cái nghe chỉ là cái nghe, và do đó, không có cái thích hay cái ghét nào dính mắc vào đó. Một số thiền sinh nói rằng, họ thấy âm thanh đi vào tai, và có thể biết được âm thanh đó đi vào tai phải hay tai trái. Mùi cũng vậy, sự sanh và diệt diễn ra rất nhanh chóng và không có sự dính mắc nào xảy ra. Tương tợ, đối với vị khi thọ dùng thức ăn cũng như thế.
Sự phồng lên và xẹp xuống của bụng rất rõ ràng, sự đau nhức cũng vậy. Các hoạt động diễn ra nơi thân cũng dễ ghi nhận, và việc ghi nhận từng tiến trình trong mỗi hoạt động diễn ra nơi thân sẽ giúp loại trừ đi tham ái. Việc ghi nhận phóng tâm cũng không khó. Tâm thiền sinh có kinh nghiệm hiếm khi bị phóng tâm, và khi phóng tâm, nó thường bị bắt cột lại vào định. Do đó, tham ái bị loại trừ khỏi tâm.
Đôi khi, hình ảnh của tâm về con người, về các vị Tỳ-khưu, về những khu vườn và nhiều đối tượng khác xuất hiện. Chúng là sản phẩm của tâm tưởng tượng và sẽ sớm biến mất nếu người ta ghi nhận chúng, do đó, tham luyến không thể sanh khởi. Đôi khi, một người có thể nghe thấy tiếng nói của một vị Chư Thiên hay một vị Thầy đang nói về một điều gì đó. Tuy nhiên, nếu người ấy ghi nhận, thì âm thanh sẽ biến mất và tham luyến sẽ không sanh khởi. Cũng vậy, nếu nhận được những lời khen ngợi, hãy nhanh chóng ghi nhận và nó sẽ biến mất. Đây là cách loại trừ tham ái ra khỏi suy nghĩ hoặc ra khỏi cảm giác.
Những điều vừa nói trên là cách để đạt được tuệ giác, tuần tự dẫn đến Thánh Đạo và Niết-bàn. Khi tuệ giác chín muồi, trí tuệ trở nên trưởng thành hơn và sự dính mắc cũng dần dần bị đoạn diệt. Vì vậy, Đức Phật đã dạy rằng, nếu loại bỏ được tham ái, thì chắc chắn đau khổ sẽ bị diệt trừ.
Khi nghe được hai câu trả lời của Đức Phật, Dạ-xoa Hemavata và Dạ-xoa Sātāgiri, cùng những người bạn của mình chứng đắc đạo quả Nhập Lưu.
Nàng Kāḷī chỉ nghe cuộc đàm luận giữa Dạ-xoa Sātāgiri và Dạ-xoa Hemavata, nên đã chứng đắc đạo quả nhập lưu trước hai vị ấy.
Ai có thể đạt được sự giải thoát?
Đây là phần cuối cùng của bài giảng về kinh Hemavata Sutta. Những điểm chính đáng lưu ý là ba câu hỏi mà Dạ-xoa Hemavata hỏi Đức Phật. Dạ-xoa Hemavata đã chứng đắc quả vị Nhập Lưu sau khi nghe Đức Phật trả lời câu hỏi thứ hai, nhưng để tôn trọng Pháp, Dạ-xoa Hemavata đã hỏi câu hỏi thứ ba như vầy:
“Bạch Đức Thế Tôn, trên thế gian này, ai có thể vượt khỏi dòng nước xoáy của các phiền não (phiền não bộc lưu)?”
Trong vòng luân hồi vô tận của sự hiện hữu, được gọi là saṃsāra, có một dòng nước chảy xiết với những xoáy nước được gọi là phiền não. Vậy ai có thể đủ sức để vượt qua dòng nước xoáy này? Dạ-xoa Hemavata lặp lại câu hỏi theo lối ẩn dụ khác rằng, ‘Ai có thể vượt qua biển nước sâu thẳm, mênh mong, được gọi là saṃsāra?’”
Saṃsāra là dòng chảy liên tục, không ngừng nghỉ của sự hiện hữu, tức là sự sanh và diệt liên tiếp của các uẩn, ví như dòng sông chảy xiết, sâu và rộng, hay như một biển nước mênh mông. Cho dầu người đó có bơi giỏi đến đâu, thì việc vượt qua khỏi biển khổ luân hồi cũng là rất khó khăn.
Dạ-xoa Hemavata tiếp tục, “Rõ ràng vòng luân hồi là không có đáy, nên không có gì nổi trên mặt nước có thể bám vào, vậy ai có thể thoát ra khỏi sự nhấn chìm trong biển luân hồi ấy, thưa Đức Thế Tôn?”
Ai có đạo đức, chánh niệm và trí tuệ mới có thể thoát khỏi vòng luân hồi
Đối với câu hỏi này, Đức Phật đã trả lời như sau:
“Này Hemavata, người có giới hạnh trọn vẹn, trong sáng, có định tâm vững chắc, có ghi nhận các hiện tượng thân và tâm cẩn trọng, có trí tuệ mới có thể vượt dòng luân hồi khó vượt qua.”
Đây là câu trả lời cho phần đầu câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata.
Dòng chảy của tham dục
Những đối tượng vừa lòng, đẹp ý mời gọi tham dục, sự dính mắc, chúng được gọi là Kāma và được ví như một dòng nước xoáy tham dục (dục bộc lưu) – kāmogha. Những ai dự phần vào tham dục và sự dính mắc, thì họ được xem là đang bị trôi dạt trong dòng chảy của tham dục. Những người ưa thích với các đối tượng, như sắc, thanh, hương, vị, xúc, nam, nữ, tài sản, họ phải cố gắng để có được chúng. Một khi họ có được chúng, họ phải cố gắng bảo vệ và giữ gìn tài sản của mình. Họ có thể làm những việc bất thiện như, trộm cắp, sát sanh, lừa đảo hay tà dâm. Vì phạm phải những việc làm bất thiện như vậy, nên họ sẽ phải rơi vào địa ngục và khổ cảnh. Đó gọi là bị trôi dạt trong biển luân hồi.
Có những người đi làm các thiện Pháp, và do đó, họ được tái sanh trong cõi trời hay cõi người. Ở đó, họ có được nhiều của cải tài sản để hưởng thụ. Đó cũng gọi là đắm chìm trong biển cả luân hồi. Sự hiện hữu trong cõi người hay cõi trời chỉ là tạm bợ, vẫn còn cái già và cái chết. Do đó, chắc chắn họ sẽ vẫn còn cảm thấy đau khổ.
Dòng chảy của sự hiện hữu
Sự mong muốn hiện hữu (bhava) là sự trôi dạt trong dòng xoáy của sự hiện hữu hay còn gọi là hữu bộc lưu (bhavogha). Một số người muốn đạt tới những cõi cao hơn, như cõi sắc giới hay vô sắc giới. Do đó, họ nỗ lực để đạt tới thiền sắc giới (rūpa jhāna) và thiền vô sắc giới (arūpa jhāna). Khi họ đạt đến cõi hiện hữu cao hơn, tuổi thọ của họ sẽ rất dài, có thể tính bằng A-tăng-kỳ, nhưng vẫn không phải là vĩnh cửu. Rồi họ cũng phải chết, một số đi đến cõi trời, một số đi đến cõi người, nhưng ở đâu cũng có sự đau khổ tràn ngập. Họ chỉ nhận được sự giải thoát tạm thời, không phải là giải thoát khỏi luân hồi.
Dòng tà kiến
Việc dính vào dòng tà kiến hay tà kiến bộc lưu (diṭṭhogha) rất là phổ biến. Có nhiều đức tin, một số thuộc về một dân tộc, còn số khác thì thuộc về địa phương. Dẫu có nhiều đức tin khác nhau, nhưng có thể phân chúng làm hai loại: một quan điểm cho rằng chúng sanh là thường hằng hay còn gọi là thường kiến (sassata diṭṭhi), quan điểm còn lại thì cho rằng, chết là hết hay còn gọi là đoạn kiến (uccheda diṭṭhi). Những người có quan điểm không cần phải tránh xa những việc làm bất thiện, thì họ cũng không cần phải làm việc thiện. Họ có thể làm bất cứ điều gì họ thích, nếu họ lách né được sự trừng phạt của Pháp luật. Họ tin rằng, họ sẽ không phải trả giá cho những việc họ đã làm trong suốt cuộc đời hay sau này theo quan điểm của họ, bởi vì chết là hết. Những người như vậy có thể sẽ bị đọa xuống địa ngục và những cõi đau khổ khác, vì trong suốt cuộc đời, họ thường tạo bất thiện. Đây là một thí dụ về sự rắc rối khi đi theo tà đạo.
Một số người ngày nay làm đảo lộn lời dạy của Đức Phật và khuyên người khác không nên làm việc thiện, không nên hành thiền, bởi vì làm vậy chỉ gặp rắc rối. Những người đi theo họ sẽ toàn làm những điều bất thiện và có thể phải rơi vào địa ngục.
Những người tin vào thần linh, họ làm những việc mà họ cho là thiện, như việc giết hại chúng sanh để hiến tế. Những việc làm bất thiện được thúc đẩy bởi tà kiến như vậy, chắc chắn sẽ làm người ấy rơi xuống địa ngục. Ví như uống nhầm thuốc thì sẽ làm cho bệnh tình trầm trọng hơn. Có những người tin rằng, họ có thể làm bất cứ điều gì mà vẫn không bị trừng phạt, bởi vì họ có niềm tin vào Chúa của mình.
Có những người thờ phượng mặt trời, mặt trăng, núi non, các linh hồn hay các vị thần. Trong khi những người khác tin rằng, họ có thể thoát khỏi đau khổ nếu họ nhịn đói, sống lõa thể, ở dưới sự thiêu đốt của ánh nắng mặt trời hay ngâm mình trong nước. Một số khác lại tin rằng, họ sẽ được giải thoát nếu giữ cho tâm mình thanh thản. Làm gì có ai có thể đạt được giới, định và tuệ mà không làm cho tâm mình ngay thẳng được?
Tất cả niềm tin thuộc về các nghi lễ, nghi thức (sīlabbataparāmāsa), không thể đưa người ta thoát khỏi sanh tử luân hồi. Những ai theo hình thức như vậy, họ sẽ không bao giờ thoát ra khỏi vòng xoáy của luân hồi. Họ sẽ phải trôi nổi trong các kiếp sống trong vòng luân hồi. Điều này quả thật là đáng sợ.
Dòng vô minh
Dòng vô minh hay còn gọi là vô minh bộc lưu (avijjogha), tức là sự không biết Tứ Diệu Đế. Mọi người thường nhầm lẫn đau khổ với hạnh phúc, họ không biết sự thật của đau khổ hay khổ đế (dukkha sacca). Mọi hành động sanh khởi nơi tâm thực sự là nhân gây ra đau khổ. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều nghĩ rằng, sắc, thanh, hương, vị, xúc và những suy nghĩ mà họ thích là tốt. Niềm tin như vậy xuất phát từ vô minh hay si mê. Họ thích những đối tượng của tham ái, dính mắc (upādāna) vào chúng, cố gắng để có được đối tượng ấy là nghiệp, nghiệp ấy có thể là thiện (kusala) hay bất thiện (akusala). Dù là thiện nghiệp hay bất thiện nghiệp, thì sự hiện hữu vẫn còn tái hiện liên tục. Sự hiện hữu trong ba mươi mốt cõi là do vô minh chi phối. Dòng vô minh này chảy xuống cõi thấp nhất (địa ngục) lên đến cõi tột đỉnh Phạm Thiên (Brahmā). Trong Bhuridattajataka và Campeyyajataka13Jātakas số 543 và 506., giải thích rằng, có kiếp Đức-Bồ-Tát mong muốn tái sanh làm loài Rắn (nāga) vì Ngài cho rằng sự tồn tại như vậy sẽ tốt hơn. Quả thực, dòng chảy vô minh này rất đáng sợ.
Vượt qua được dòng chảy này không phải là điều dễ dàng. Người ta phải có khả năng phi thường để bơi qua chúng. Đó là lý do, tại sao Dạ-xoa Hemavata lại hỏi Đức Phật rằng, ai có thể bơi qua dòng chảy đó. Khi trả lời câu hỏi đó, Đức Phật đã mô tả các phẩm chất của người có thể vượt qua chúng thành công.
Những phẩm chất của người vượt qua các dòng chảy
Đức Phật nói rằng, phẩm chất đầu tiên của một người vượt qua được dòng chảy một cách thành công thì người đó phải có giới hạnh trọng sạch. Đây là một phẩm chất thực sự cần thiết, vì vậy Đức Phật đã đặt nó lên hàng đầu. Một người có lòng tin vững chắc trong Pháp phải nghiêm trì giữ gìn giới trong sạch, người đó mới có thể vượt qua bốn dòng nước xoáy này để chứng ngộ Niết-bàn. Một số người nghi ngờ có thể nhắc tới chuyện của Santati, một vị quan đại thần, người đã chứng ngộ Niết-bàn trước khi chết” … Khi mùi rượu vẫn chưa rời khỏi miệng của ông ấy”, và có câu hỏi rằng, liệu giới trong sạch có phải là điều cần thiết hay không. Thực sự trường hợp như vậy là rất hiếm, Sư phải nói rằng, một trong một trăm ngàn. Những cá nhân như vậy đã có Ba-la-mật chín muồi. Đức Phật biết về sự dày dặn của pháp Ba-la-mật trong họ.
Trong số năm vị đệ tử đầu tiên, chỉ có Tôn giả A-nhã-kiều-trần-như (Koṇḍañña) chứng đắc đạo quả Nhập Lưu vào ngày Đức Phật thuyết giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân. Bốn vị kia phải cố gắng thêm bốn ngày nữa mới có thể chứng ngộ lần lượt từng vị một. Không phải tất cả các vị ấy đều có sự dày dặn về các Pháp Ba-la-mật như nhau. Cần lưu ý đến những điểm khác biệt như vậy về các Ba-la-mật. Một số cá nhận chứng ngộ Pháp trong khi nghe một bài thuyết pháp, nhưng số đó rất hiếm. Một số khác phải nỗ lực trong một thời gian, trong vài giờ, trong nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm, tùy theo cấp độ Ba-la-mật của họ.
Đức Phật dạy luôn giữ giới trong sạch, từ ‘luôn’ có nghĩa là từ lúc bắt đầu hành thiền trong suốt thời gian thiền tập. Chỉ khi đó, người ta mới có thể an vui vì họ giữ gìn giới của mình được trong sạch. Cảm giác vui vẻ, không hối hận sẽ đưa tới định. Còn nếu hoài nghi về giới của mình, thì định sẽ bị cản trở. Nếu không có định, sẽ không có tuệ minh sát, mà không có tuệ minh sát thì con đường đạo và quả sẽ rời xa. Đối với người tại gia cư sĩ, thì cần phải gìn giữ ngũ giới, còn đối với một vị Tỳ-khưu, thì cần phải tuân thủ giới Ba-la-đề-mộc-xoa (Pātimokkha). Giới là điều kiện tiên quyết, là phẩm chất đầu tiên cho người có nỗ lực để thoát khỏi bốn dòng nước cuốn.
Phẩm chất thứ hai liên quan đến Định. Điều này có nghĩa là sau khi thiết lập được Giới trong sạch, người ta phải cố gắng để đạt được Định và an trú trong Định. Một người phải nỗ lực để đạt tới bát thiền hoặc ít nhất là sơ thiền, nhị thiền. Điều này dành cho những vị có khả năng xuất chúng. Nếu không nỗ lực để đạt tới sự an trú ấy, người đó phải nỗ lực để đạt tới cận định (upacāra samādhi) hay sát-na định (khaṇika samādhi), tức là định minh sát (vipassanā samādhi). Đây là yêu cầu tối thiểu để một người có thể trang bị được tâm thanh tịnh (cittavisuddhi), nhờ vậy, người ấy có thể đạt tới Niết-bàn (nibbāna). Nếu không thì mục đích sẽ không thành tựu.
Phẩm chất thứ ba là tuệ. Tuệ chỉ có thể đạt được bằng cách chánh niệm về sự sanh, diệt của các hiện tượng thân và tâm. Một người chỉ có thể hiểu đúng về các dòng chảy liên tục của thân và tâm khi họ ghi nhận chúng bên trong mình. Làm sao người ta có thể có được sự hiểu biết đúng đắn bằng cách ghi nhận các tiến trình thân và tâm của người khác được? Thiện tín có thể nghĩ rằng, người đó đang vui, nhưng có thể người đó đang buồn. Cũng vậy, thiện tín có thể nghĩ người đó đang làm thiện, nhưng họ lại đang làm bất thiện. Một người chỉ có thể biết sự thực về chính mình. Nếu người ta ghi nhận những gì đang diễn ra bên trong mình, họ có thể sẽ biết được những gì đang thực sự diễn ra. Việc ghi nhận những thứ đang thay đổi bên trong mình là không quá khó. Người ta chỉ cần ghi nhận những gì đang sanh lên và biến mất một cách nhanh chóng.
Đừng vội vàng nói về một đối tượng (eko-dhammo)
Những ai đã đạt được thiền (jhāna) phải ghi nhận thiền (jhāna) và các hiện tượng sanh khởi từ thấy, nghe, ngửi, v.v… Những ai chưa đạt được thiền phải ghi nhận những gì họ thấy, nghe, ngửi v.v… Nghĩa là họ phải ghi nhận các hoạt động sanh khởi nơi thân và tâm. Một số người nói rằng, việc ghi nhận các hoạt động khi chúng diễn ra sẽ làm suy giảm Định. Họ cho rằng điều đó trái ngược với lý thuyết về một đối tượng (eko-dhammo). Những cá nhân như vậy không hiểu được sự hoạt động thực sự của vipassanā. Vipassanā không phải là sự tập trung vào một đối tượng duy nhất. Người ta phải ghi nhận tất cả các hiện tượng diễn ra ở thân và tâm. Nếu không ghi nhận chúng, người ta sẽ cho rằng chúng là vĩnh cửu, xem đó là hạnh phúc và giữ lấy cái ngã. Suy nghĩ như vậy sẽ tạo nghiệp, nó sẽ dẫn tới sự tái sanh. Mục đích của vipassanā là loại bỏ những kết quả như vậy nhờ vào sự ghi nhận các hiện tuợng và thấy được ba tướng (vô thường, khổ, vô ngã). Đức Phật dạy rằng, tất cả các hiện tượng cần phải được nhận thức bằng tuệ giác.
Trong kinh điển và chú giải, eko-dhammo không đề cập với nghĩa là một đối tượng duy nhất. Trong Tăng Chi Bộ (Aṅguttaranikāya) và Kinh thập thượng (Dasuttara Sutta) có nhắc tới, những ý nghĩa của nó không phải như những gì mà một số người đã vội vàng hiểu. Nó có nghĩa là người ta nên kiên trì với một phương pháp hành thiền, dù có tới mười phương pháp khác nhau được nhắc tới trong Kinh. Không nên vội vàng về eko-dhammo mà không biết ý nghĩa cũng như mục đích của nó.
Bằng cách ghi nhận bất cứ điều gì diễn ra nơi thân và tâm của chính mình, mà người ta đạt được định, đồng thời, có được trí tuệ sâu sắc nhờ thấy được sự tách biệt của thân và tâm, thấy được ý nghĩa của nhân – quả. Người đã đạt tới thánh đạo là người đã bơi vượt qua được dòng nước xoáy chảy siết và dữ dội của luân hồi. Đó là những gì Đức Phật đã trả lời cho câu hỏi của Dạ-xoa Hemavata.
Cách để thoát ra khỏi những dòng nước chảy siết này sẽ được giải thích cho những ai cần hiểu rõ thêm. Nếu một người có thể phân biệt được Niết-bàn (nibbāna) thông qua sự hiểu biết nhập lưu thánh đạo, người ấy đã vượt qua dòng chảy của tà kiến (diṭṭhi). Đó là lý do tại sao nói, một vị thánh nhập lưu không còn bị si mê trong cái ngã (atta) và niềm tin vào đoạn kiến (uccheda diṭṭhi) nữa. Vị ấy cũng đã diệt tận được giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa), cho rằng một người có thể thoát ra khỏi vòng luân hồi bằng cách thực hiện các nghi thức, nghi lễ chứ không phải tinh tấn để thành tựu giới, định, tuệ. Vị thánh nhập lưu có một lòng tin vững chắc vào Phật, Pháp và Tăng, vị ấy cũng biết rằng một người phải tinh tấn để thành tựu giới, định, tuệ. Những người không phải là vị thánh nhập lưu thường thiếu quyết đoán trong đức tin của mình và do đó, họ đi khắp nơi để tham vấn người khác. Thông thường, họ thường bị dính bẫy của những tà sư, và do đó, họ liên tục bị đau khổ hành trình của mình trong vòng luân hồi.
Đối với những vị thánh nhập lưu, các vị ấy không bao giờ đi chệch khỏi chánh đạo. Các vị ấy sẽ giải thoát khỏi đau khổ, tối đã chỉ còn bảy kiếp nữa. Vì vậy, nếu một người có thể bơi qua dòng nước xoáy của tà kiến, thì rõ ràng, họ đã thành tựu được lợi ích to lớn.
Tới giai đoạn Nhất Lai, vị ấy làm suy yếu đi dòng chảy của tham dục, nhưng vẫn chưa hoàn toàn diệt trừ được. Vị ấy phải tiếp tục hành thiền để tiến xa hơn nữa. Chỉ khi đạt tới giai đoạn Bất Lai, vị ấy mới hoàn toàn diệt tận tham dục. Vì vậy, các vị ấy cực kỳ hạnh phúc, bởi đã thoát khỏi đau khổ do tham dục tạo ra. Tuy nhiên, các vị ấy vẫn còn phải vượt qua dòng chảy của sự hiện hữu (hữu bộc lưu).
Vị đã đạt tới giai đoạn Bất Lai lại phải tiếp tục hành thiền cho đến khi đắc được trí tuệ A-la-hán đạo (arahatta magga-ñāṇa). Chỉ khi đó, vị ấy mới vượt qua được bốn dòng chảy, bao gồm cả dòng chảy của vô minh (vô minh bộc lưu) và thoát ra khỏi dòng luân hồi.
Vị A-la-hán đoạn tận mọi kiết sử (trói buộc)
Đức Phật tiếp tục, “Này Hemavata, vị A-la-hán đã vượt qua mọi kiết sử (saṃyojana), sau khi đã giải thoát khỏi tham, vị ấy không còn chìm trong biển khổ luân hồi vô tận, lúc nào vị ấy cũng được an lạc.”
Theo phần đầu câu trả lời của Đức Phật, người kiên trì hành thiền sẽ đạt tới giai đoạn tối thượng và trở thành bậc thánh A-la-hán. Đối với bậc thánh A-la-hán, không còn sự tái sanh, vì vị ấy đã hoàn toàn thoát ra khỏi vòng luân hồi. Vị thánh Bất lai đang trên đường thoát khỏi dòng luân hồi. Vị thánh Nhất Lai, còn trôi nổi trong vòng luân hồi không quá hai kiếp và vị thánh Nhập Lưu còn tối đa là bảy kiếp nữa. Tất cả các vị ấy đã tự mình thoát ra khỏi địa ngục và khổ cảnh. Một phàm nhân không có gì đảm bảo cho việc bị đọa xuống khổ cảnh, mặc dầu có thể họ đã làm nhiều thiện pháp. Đối với phàm nhân, vòng luân hồi giống như biển động, người ấy không có chỗ để nương tựa để giữ cho mình không bị nhấn chìm. Giờ chính là lúc hành động để thoát ra khỏi vòng luân hồi (saṃsāra) trong ba mươi mốt cõi.
Bài giảng giải về cuộc đối thoại trong Hemavata Sutta đã chấm dứt. Chỉ còn lại sự tôn kính của Dạ-xoa Hemavata đối với Đức Phật.
Sau khi nghe những lời Pháp của Đức Phật cùng với trí tuệ tối thượng của Ngài. Dạ-xoa Hemavata tràn đầy sự tôn kính đối với Đức Phật. Vị ấy quay sang một ngàn vị Chư Thiên tùy tùng và khuyến khích các vị ấy tôn kính Đức Phật, “Đức Thế Tôn là vị có trí tuệ toàn hảo, Ngài đã thoát khỏi tham ái, đã thành tựu A-la-hán thánh đạo”. Vị ấy nói rằng, bởi vì sự tôn kính và nghe Đức Phật thuyết Pháp, nên họ đã thấy được ánh sáng của giáo pháp. Sau đó, vị ấy quay sang Đức Phật, Dạ-xoa Hemavata nói, “Chúng con, hàng ngàn thiên chúng Dạ-xoa, xin đảnh lễ và quy y nơi Ngài, Đức Thế Tôn, bậc Đạo Sư tối thượng”.
Lý do nào cả ngàn vị chư thiên Dạ-xoa này lại thành tựu được Pháp, cần phải tìm hiểu câu chuyện tiền kiếp của họ.
Tiền kiếp của Dạ-xoa Hemavata
Đức Phật Kassapa tịch diệt niết bàn và xá lợi của Ngài được thờ cúng trong một ngôi bảo tháp bằng vàng. Vào thời ấy, có hai người nam gia nhập Tăng Đoàn trong giáo Pháp của Đức Phật theo ý nguyện của mình14Có hai loại Tỳ-khưu, một loại xuất gia theo ý nguyện cao quý của mình, thì gọi là saddhā pabbajita, còn những người xuất gia để trốn tránh sự trừng phạt của Pháp Luật vì tội ác mà họ đã gây ra, thì gọi là bhaya pabbajita. . Một vị Tỳ-khưu có hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ thứ nhất là nghiên cứu kinh điển và thuyết giảng giáo Pháp, và nhiệm vụ thứ hai là thực hành thiền để chứng ngộ Pháp.
Vào thời Đức Phật Gotama, có nhiều vị tỳ-khưu chứng đắc đạo quả A-la-hán, bắt đầu từ năm vị đầu tiên. Thí dụ, công tử Yasa, con trai của một triệu phú và năm mươi bốn người bạn của Ngài, ba mươi người trong tộc Bhaddavaggi, một ngàn tu sĩ khổ hạnh do Uruvela Kassapa, Upatissa và Kolita dẫn đầu, sau này là Sāriputta và Moggallāna cùng với hai trăm năm mươi đệ tử. Tất cả các vị ấy đều thực hành Pháp và chứng đắc đạo quả A-la-hán. Trong số các vị ấy, con trai của Soṇa, một người giàu có, đã tinh tấn nỗ lực rất dõng mãnh trong việc thực hành Pháp.
Tôn giả ấy khi còn nhỏ, Ngài chưa bao giờ đặt chân xuống đất, vì vậy, lòng bàn chân của Ngài được bảo phủ bởi những sợi lông mềm mại. Khi vị ấy gia nhập Tăng Đoàn, Ngài quyết tâm thực hiện nhiệm vụ của một Tỳ-khưu để giải thoát khỏi sự đau khổ trong luân hồi, nhưng có một vấn đề xảy ra. Trong khi Ngài tinh tấn đi kinh hành bằng chân trần, vì chân Ngài rất mỏng manh nên nhanh chóng bị phồng rộp và bắt đầu chảy máu, máu nhuốm đầy chỗ đi kinh hành, nhưng Ngài vẫn không bỏ cuộc. Tuy nhiên, Ngài vẫn không chứng đắc đạo quả A-la-hán. Cuối cùng, Ngài tuyệt vọng và nghĩ đến việc hoàn tục. Ngài nghĩ rằng mình không có đầy đủ Ba-la-mật để thành tựu Pháp. Sau đó, Đức Phật đến gặp Ngài và khuyên Ngài không nên cố gắng quá sức cũng như nghỉ ngơi quá mức, hãy đi theo trung đạo. Vị ấy nghe theo lời khuyên của Đức Phật nên đã chứng ngộ đạo quả A-la-hán.
Vào thời Đức Phật, có vô số chứng sanh đã chứng đắc đạo quả A-la-hán, Bất Lai, Nhất Lai hay Nhập Lưu. Tất cả những bậc thánh nhân này đã thực hiện theo lời khuyên của Đức Phật bằng cách thực hành thiền và chứng ngộ được Pháp. Hai vị Tỳ-khưu mới xuất gia, nghĩ rằng còn trẻ nên chọn học Pháp trước rồi khi già sẽ thực hành Pháp sau. Nhờ siêng năng nghiên cứu Kinh Điển nên hai vị ấy đã trở thành các bậc Tam Tạng. Sau đó, hai vị thuyết giảng giáo Pháp cho năm trăm vị Tỳ-khưu khác trở thành những thầy rất nổi tiếng.
Các vị ấy chọn học Pháp khi còn trẻ và thực hành Pháp khi về già. Nhưng ai có thể đảm bảo rằng một người sẽ không chết trẻ? Nếu các vị ấy chết trẻ thì họ sẽ bỏ qua cơ hội thực hành Pháp. Đức Phật mong tất cả mọi người hãy thực hành Pháp khi còn trẻ.
Đức Phật dã dạy trong Kinh Pháp Cú, như vầy:
“Tỳ-khưu trong giáo pháp của Đức Phật, vị thực hành Pháp khi còn trẻ với mục đích chứng đạt đạo quả, sẽ giác ngộ thế gian [đồng nghĩa với năm uẩn] giống như mặt trăng không bị mây che khuất, chiếu sáng khắp thế gian.” (Dhp v 382)
Người thực hành thiền minh sát sẽ giác ngộ thế gian của chính mình cũng như Mặt Trăng soi sáng khắp thế gian. Bắt đầu hành thiền bằng cách thường xuyên ghi nhận sự phồng lên và xẹp xuống của bụng, nhờ vậy, người ta sẽ biết được bản chất thực sự của thân và tâm. Sau đó, thiền sinh tiếp tục ghi nhận, thiền sinh sẽ biết được bản chất thực sự của các uẩn, và nhận ra chân lý sâu sắc về vô thường, khổ, vô ngã. Khi thiền tập phát triển, trí tuệ sẽ chín muồi và soi sáng thế giới của người đó, hay nói cách khác là năm uẩn.
Người ta có thể hỏi, liệu thiền sinh lớn tuổi không thể giác ngộ được chăng? Thiền sinh lớn tuổi chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ, nhưng sự giác ngộ có thể đến chậm hơn. Tuổi tác làm chậm khả năng của thân và tâm. Một thiền sinh ba mươi tuổi có thể đạt được mục đích của mình trong vòng một tháng, trong khi, một thiền sinh sáu mươi hay bảy mươi tuổi lại đạt được mục đích của mình trong vòng hai đến ba tháng. Sự khác biệt nằm ở chỗ thân và tâm. Một người lớn tuổi thường có nhiều trách nhiệm hơn, do đó, họ có nhiều sự lo lắng hơn. Trí tuệ của một người trẻ thì sắc sảo hơn, trong khi, trí tuệ của người lớn tuổi thì bị suy giảm đi. Người lớn tuổi có thể phải đối mặt với nhiều suy nghĩ gây mất tập trung hơn. Vì vậy, Đức Phật đặc biệt khen ngợi những ai thực hành thiền khi còn trẻ.
Đối với các vị Tỳ-khưu, tốt hơn là các vị mới xuất gia nên bắt đầu tinh tấn hành thiền khi còn trẻ. Đức tin của các vị ấy rất mạnh mẽ và giới của các vị ấy không có khuyết điểm. Mặc dầu theo đuổi Pháp học rất quan trọng, nhưng các vị Tỳ-khưu trẻ nên thực hành thiền ít nhất trong ba tháng đầu tiên. Đó là ý kiến cá nhân của Sư. Giống như tiền thân của Dạ-xoa Hemavata và Dạ-xoa Sātāgiri đã qua đời khi còn trẻ mà chưa có cơ hội thực hành Pháp.
Hai vị Tỳ-khưu đáng kính này nhận được sự kính trọng từ các đệ tử, từ các vị Tỳ-khưu và cư sĩ, trong thời kỳ giáo Pháp của Đức Phật Kassapa đang hưng thịnh. Vào lúc đó, hai vị Tỳ-khưu trẻ sống trong một tu viện, một vị thì tuân thủ các quy định của Hội Chúng, vị còn lại thì ương ngạnh. Khi các vị Tỳ-khưu cẩn thận chỉ lỗi thì vị ấy không chấp nhận bất kỳ lời quở trách nào.
Vị Tỳ-khưu đầu tiên nói với vị Tỳ-khưu thứ hai hãy chờ đến lễ Tự Tứ (pavāraṇā). Tất cả các vị Tỳ-khưu đều có nghĩa vụ tham dự lễ Tự Tứ vào cuối mùa mưa và chỉ ra những lỗi đã vi phạm theo luật của Tăng Đoàn. Lễ này được tổ chức hằng năm vào ngày rằm tháng mười cuối mùa mưa. Người bị chỉ lỗi sẽ cảm ơn những người chỉ ra lỗi của mình và cam kết sẽ cẩn thận hơn trong tương lai. Lễ Tự Tứ nhằm mục đích thanh lọc giáo Pháp của Đức Phật. Đức Phật Gotama cũng đặt ra nghi lễ này và bắt buộc phải tham dự.
Người ta nên biết ơn lời quở trách chỉ ra lỗi lầm của mình, lời quở trách như vậy sẽ cho người ấy cơ hội để sửa chữa. Lỗi lầm ở vị Tỳ-khưu nghiêm trọng hơn rất nhiều so với lỗi lầm ở người cư sĩ tại gia. Nếu vị Tỳ-khưu qua đời mà không biết rằng mình đã phạm lỗi, nếu không có cơ hội xám hối, thì vị ấy có thể bị rơi xuống địa ngục. Nếu vị ấy biết lỗi của mình và sửa chữa cho phù hợp, thì giới của vị ấy trở nên trong sạch. Sau khi lấy lại được sự thanh tịnh, vị ấy thực hành Pháp thì có thể đạt được trí tuệ cao hơn, nhưng nếu chết đi, vị ấy sẽ tái sanh lên cõi trời. Vì vậy, Đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú rằng:
“Người trí chỉ ra lỗi lầm của người khác với ý tốt được những người thiện kính mến và tôn trọng, nhưng bị những kẻ có tâm địa xấu ác ghét bỏ.” (Dhp v 77)
Vị Tỳ-khưu ương ngạnh phản đối vị Tỳ-khưu tuân thủ luật của hội chúng. Vì vậy, vị Tỳ-khưu tuân thủ luật nói rằng mình sẽ trình vấn đề này lên các bậc trưởng lão. Vị Tỳ-khưu ương ngạnh sợ rằng mình có thể bị quở trách, vì vậy, vị ấy tiếp cận các bận trưởng lão, tặng y và bát khất thực, đồng thời bày tỏ lòng tôn kính đối với các vị trưởng lão. Vị ấy phục vụ các vị trưởng lão rất tốt và tỏ ra rất nhu mì. Các vị trưởng lão hỏi vị ấy có vấn đề gì? Vị ấy nói rằng có một cuộc tranh cãi với vị đồng phạm hạnh của vị ấy về hành động của mình, và yêu cầu các vị trưởng lão hoãn lại phán quyết khi vụ việc của ông được trình lên hội chúng. Các vị trưởng lão nói rằng họ không thể làm vậy nhưng vị Tỳ-khưu ương ngạnh vẫn cứ khăng khăng. Các vị Tỳ-khưu đã nhận quà và sự phục vụ của vị ấy nên cảm thấy khá e ngại khi giải quyết vụ việc đó. Vì vậy, các vị trưởng lão hứa sẽ bỏ qua vụ việc của ông khi nó được trình bày lên hội chúng. Tất nhiên, đây là hành động thiên vị và tham những. Nhận được sự trấn an như vậy, vị Tỳ-khưu ương ngạnh trở về tu viện của mình và đối xử với vị đồng phạm hạnh của mình một cách ngạo mạn. Vị Tỳ-khưu tuân thủ luật có hoài nghi và bí mật điều tra. Ngài bắt đầu thắc mắc về sự chậm trễ trong việc giải quyết vấn đề mà Ngài đã trình lên hội chúng. Các đệ tử của các vị trưởng lão mà Ngài tiếp cận đều tỏ ra dè dặt.
Vị Tỳ-khưu ương ngạnh càng ngày càng trở nên trơ tráo hơn. Ông hỏi vị Tỳ-khưu tuân thủ luật về vụ việc kia và thách thức một cách vô lễ. “Ông đã thua kiện. Ông không nên quay lại tu viện. Hãy đi nơi khác và đừng sống chung với tôi”. Vị Tỳ-khưu tuân thủ luật đến hỏi các vị trưởng lão về vụ việc đã trình lên hội chúng và nhận lại câu trả lời không thỏa đáng. Những vị trưởng lão vốn rất trung thực, nhưng vì nhận đồ từ vị Tỳ-khưu tham nhũng nên họ đã rơi vào tà đạo.
Vị Tỳ-khưu tuân thủ luật nói rằng, “Kể từ khi Đức Phật Kassapa tịch diệt, hai vị trưởng lão và uyên bác cũng được xem là một vị Phật khác, các vị đã tự làm cho mình không đủ tư cách để đưa ra lời phán quyết về những vấn đề liên quan đến quy tắc và luật lệ của Hội Chúng. Giáo Pháp của Đức Phật đã suy tàn và đang bị hủy hoại”. Tất nhiên, những hành vi tham những như vậy cần phải bị lên án.
Hai vị trưởng lão cảm thấy hối hận khi nghe lời cáo buộc của vị Tỳ-khưu trẻ và lương tâm của họ bị cắn rứt trong suốt quãng đời còn lại. Họ không thể nào thoát khỏi sự hoài nghi về lòng trung thực của mình sau nhiều năm phục vụ Hội Chúng, giảng dạy giáo Pháp cho đệ tử và giữ gìn giới luật cho tới khi qua đời. Vì vậy, họ đã tái sanh làm những Chư Thiên Dạ-xoa (yakkha) ở dãy Himalaya. Nếu không bị những chướng ngại như vậy, có thể các vị ấy sẽ tái sanh vào cõi trời vì công đức mà họ đã tạo. Một vị Chư Thiên Dạ-xoa gọi là Hemavata, còn vị kia là Dạ-xoa Sātāgiri. Các vị này thuộc tầng lớp cao hơn trong hệ thống cập bậc Chư Thiên Dạ-xoa, họ là chỉ huy của các tiểu đoàn Dạ-xoa. Các vị Dạ-xoa này có năng lực vượt trội hơn các vị Chư Thiên bình thường mặc dù sắc đẹp của họ không bằng Chư Thiên.
Dạ-xoa Hemavata và Dạ-xoa Sātāgiri đã ăn năn về những hành động sai lầm của mình trong kiếp trước, đồng thời tự trách về sự yếu đuối của mình khi khuất phục trước sự tha hóa của một vị Tỳ-khưu thối đọa. Các vị ấy nói rằng, đáng lẽ các công đức mà họ đã làm trong thời Đức Phật Kassapa sẽ đưa họ tái sanh lên cõi trời, trong khi, giờ đây họ phải đảm nhận những vị trí thấp hơn. Họ đã hứa với nhau rằng, một trong hai người, nếu ai trong số họ có được tin tốt sẽ lập tức thông báo cho người kia. Để thực hiện lời hứa này, Dạ-xoa Sātāgiri vội vã đến gặp bạn của mình là Dạ-xoa Hemavata để báo tin tốt về bài pháp đầu tiên của Đức Phật Gotama.
Họ đã sống trong nhiều kiếp, nhưng đến năm 2.551 (1963) năm trước, khi Đức Phật Gotama thuyết bài pháp đầu tiên cho năm vị khổ hạnh, với sự tham dự của hàng triệu Thiên Chúng. Như Sư đã đề cập ở phần đầu bài giảng này, Dạ-xoa Sātāgiri không tìm thấy bạn mình là Dạ-xoa Hemavata trong hội chúng nên đã vội vã đi báo tin vui cho vị ấy.
Dạ-xoa Hemavata vô cùng vui mừng khi nghe Đức Phật giảng Pháp, và vị ấy đi khắp nơi, từ làng này sang làng khác, từ ngọn núi này sang ngọn núi khác của các quốc độ Phi Nhân để thông báo sự xuất hiện của Phật, Pháp, Tăng.
Đây là phần kết của bài kinh Hemavata Sutta. Mong rằng thính chúng có thể vượt qua bốn dòng nước chảy siết của luân hồi bằng cách thực hành thiền minh sát, để đạt được trạng thái an lạc tối thượng của Niết-bàn.
Hemavata Suttaṃ
- “Ajja pannaraso uposatho, (iti sātāgiro yakkho)
Dibbā ratti upaṭṭhitā. Anomanāmaṃ satthāraṃ, handa passāma Gotamaṃ.” - “Kacci mano supaṇihito, (iti hemavato yakkho) Sabbabhūtesu tādino.
Kacci iṭṭhe aniṭṭhe ca,-saṅkappassa vasīkatā.” - “Mano cassa supaṇihito, (iti sātāgiro yakkho)
Sabbabhūtesu tādino. Atho iṭṭhe aniṭṭhe ca,-saṅkappassa vasīkatā.” - “Kacci adinnaṃ nādiyati, (iti hemavato yakkho)
Kacci pāṇesu saññato. Kacci ārā pamādamhā, kacci jhānaṃ na riñcati.” - “Na so adinnaṃ ādiyati, (iti sātāgiro yakkho)
Atho pāṇesu saññato. Atho ārā pamādamhā, buddho jhānaṃ na riñcati.” - “Kacci musā na bhaṇati, (iti hemavato yakkho)
Kacci na khīṇabyappatho. Kacci vebhūtiyaṃ nāha, kacci samphaṃ na bhāsati.” - “Musā ca so na bhaṇati, (iti sātāgiro yakkho)
Atho na khīṇabyappatho. Atho vebhūtiyaṃ nāha, mantā atthaṃ ca bhāsati.” - “Kacci na rajjati kāmesu, (iti hemavato yakkho)
Kacci cittaṃ anāvilaṃ. Kacci mohaṃ atikkanto, kacci dhammesu cakkhumā.” - “Na so rajjati kāmesu, (iti sātāgiro yakkho)
Atho cittaṃ anāvilaṃ. Sabbamohaṃ atikkanto, buddho dhammesu cakkhumā.” - “Kacci vijjāya sampanno, (iti hemavato yakkho )
Kacci saṃsuddhacāraṇo. Kaccissa āsavā khīṇā, kacci natthi punabbhavo.” - “Vijjāya ceva sampanno, (iti sātāgiro yakkho)
Atho saṃsuddhacāraṇo. Sabbassa āsavā khīṇā, natthi tassa punabbhavo.” - “Sampannaṃ munino cittaṃ, kammunā byappathena ca.
Vijjācaraṇasampannaṃ, dhammato naṃ pasaṃsati.” - “Sampannaṃ munino cittaṃ, kammunā byappathena ca.
Vijjācaraṇasampannaṃ, dhammato anumodasi.” - “Sampannaṃ munino cittaṃ, kammunā byappathena ca.
Vijjācaraṇasampannaṃ, handa passāma Gotamaṃ. - “Eṇijaṅghaṃ kisaṃ vīraṃ, appāhāraṃ alolupaṃ.
Muniṃ vanasmiṃ jhāyantaṃ, ehi passāma Gotamaṃ. - “Sīhaṃvekacaraṃ nāgaṃ, kāmesu anapekkhinaṃ.
Upasaṅkamma pucchāma, maccupāsappamocanaṃ. - “Akkhātāraṃ pavattāraṃ, sabbadhammāna pāraguṃ.
Buddhaṃ verabhayātītaṃ, mayaṃ pucchāma Gotamaṃ.” - “Kismiṃ loko samuppanno, (iti hemavato yakkho)
Kismiṃ kubbati santhavaṃ. Kissa loko upādāya, kismiṃ loko vihaññati.” - “Chasu loko samuppanno, (hemavatāti Bhagavā)
Chasu kubbati santhavaṃ. Channameva upādāya, chasu loko vihaññati.” - “Katamaṃ taṃ upādānaṃ, yattha loko vihaññati.
Niyyānaṃ pucchito brūhi, kathaṃ dukkhā pamuccati”. - “Pañca kāmaguṇā loke, manochaṭṭhā paveditā.
Ettha chandaṃ virājetvā, evaṃ dukkhā pamuccati. - “Etaṃ lokassa niyyānaṃ, akkhātaṃ vo yathātathaṃ.
Etaṃ vo ahamakkhāmi, evaṃ dukkhā pamuccati.” - “Ko sūdha tarati oghaṃ, kodha tarati aṇṇavaṃ.
Appatiṭṭhe anālambe, ko gambhīre na sīdati.” - “Sabbadā sīlasampanno, paññavā susamāhito.
Ajjhattacintī satimā, oghaṃ tarati duttaraṃ. - “Virato kāmasaññāya, sabbasaṃyojanātigo.
Nandībhavaparikkhīṇo, so gambhīre na sīdati.” - “Gabbhīrapaññaṃ nipuṇatthadassiṃ, akiñcanaṃ kāmabhave asattaṃ.
Taṃ passatha sabbadhi vippamuttaṃ, dibbe pathe kamamānaṃ mahesiṃ. - “Anomanāmaṃ nipuṇatthadassiṃ, paññādadaṃ kāmālaye asattaṃ.
Taṃ passatha sabbaviduṃ sumedhaṃ, ariye pathe kamamānaṃ mahesiṃ. - “Sudiṭṭhaṃ vata no ajja, suppabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ.
Yaṃ addasāma sambuddhaṃ, oghatiṇṇamanāsavaṃ. - “Ime dasasatā yakkhā, iddhimanto yasassino.
Sabbe taṃ saraṇaṃ yanti, tvaṃ no satthā anuttaro. - “Te mayaṃ vicarissāma, gāmā gāmaṃ nagā nagaṃ.
Namassamānā sambuddhaṃ, dhammassa ca sudhammata”nti.
Hemavatasuttaṃ navamaṃ niṭṭhitaṃ.
Ghi chú:
- 1Ấn bản đầu tiên của cuốn sách này gọi các vị ấy là Chư Thiên ‘devas’. Trong văn bản Pāḷi, Dạ-xoa Sātāgiri và Hemavata là những vị thần bảo vệ Địa Cầu (yakkhas). (Ed.)
- 2Bài Pháp này được thuyết giảng vào năm 1963.
- 3Aṅguttaranikāya, Vol. i. 24.
- 4Majjhimanikāya Vol. ii. 66ff, Raṭṭhapāla Sutta.
- 5Theo soạn phẩm này là 240 triệu lần mỗi ngày, Ngài an trú trong tâm Đại Bi.
- 6Những người theo chủ nghĩa duy vật sẽ không tin vào sự tái sinh và nghĩ rằng mọi thứ đều có thể giải thích bằng khoa học. Thí dụ, họ nói rằng mọi bệnh tất đều có nguyên nhân, về di truyền hoặc môi trường sống, sớm muộn gì y học cũng sát phát hiện ra. Họ ủng hộ việc giết mổ động vật để làm thí nghiệm hay thí nghiệm trực tiếp một cách vô đạo đức trên động vật để tìm phương pháp chữa bệnh cho con người. Do đó, thật trớ trêu khi phải thực hành theo lời dạy của Đức Phật, vì sự sát hại động vật sẽ là nhân dẫn tới tái sanh nơi địa ngục. Sau khi thoát khỏi địa ngục, được tái sanh làm người thì họ lại tái sanh làm người mang nhiều tật bệnh trong người (Cūḷakammavibhaṅga Sutta). Theo Phật Giáo, mọi kết quả hiện tại đều là Nghiệp quá khứ, đây là một quan điểm sai lầm (Pubbekatahetu-diṭṭhi). Vì bệnh tật xảy ra theo bốn lý do, thức ăn, khí hậu và tâm là những nguyên nhân quan trọng, nhưng nghiệp quá khứ là một trong bốn nhân có thể xảy ra. Một người nên tìm hiểu kỹ lưỡng về luật nhân quả trước khi đưa ra một kết luận quá dễ dàng. Một người có thể nói chắc chắn rằng, nghiệp bất thiện cho quả xấu, trong khi thiện nghiệp cho quả lành. Như Đức Phật đã nói, “không thể có một hành động xấu nào lại đem tới một kết quả dễ chịu.” (Aṭṭhānapāḷi, Dutiyavaggo, A.i.i.284) (ed.)
- 7Kinh Pháp Cú Câu 101 (Dhammapada, v 101).
- 8Bản chú giải của Kinh Pháp Cú câu 70 (Dhammapada, v 70) kể câu chuyện về một vị đạo sĩ lõa thể tên là Jambuka. Ông phải chịu quả của ác nghiệp trong quá khứ đã tạo, trước khi các Ba-la-mật (pāramī) chín muồi đưa tới Đạo Quả. Đây là một thí dụ về sự trì hoãn trong năm mươi lăm năm. Trí tuệ phi thường này của Đức Phật có thể đánh giá được sự già dặn trong tâm của các chúng sanh, chính vì vậy mà Ngài tế độ được hết những người hữu duyên nên tế độ. Thậm chí, Ngài có thể thuần hóa được con Voi hung dữ Nāḷāgiri.
- 9Saṃyuttanikāya, Citta Sutta, S. i. 39.
- 10Được Đức Phật tuyên bố là vị Đệ Nhất về hạnh khéo nói (A.i.24), Ngài đến từ vùng Tây Nam Avanti (gần Bhopal).
- 11Majjhimanikāya i. 219.
- 12Câu chuyện của vị ấy được kể trong câu kệ Pháp Cú 113: “Dù sống đến trăm năm, Không thấy pháp sanh diệt, Chẳng bằng sống một ngày, Thấy được pháp sanh diệt”.
- 13Jātakas số 543 và 506.
- 14Có hai loại Tỳ-khưu, một loại xuất gia theo ý nguyện cao quý của mình, thì gọi là saddhā pabbajita, còn những người xuất gia để trốn tránh sự trừng phạt của Pháp Luật vì tội ác mà họ đã gây ra, thì gọi là bhaya pabbajita.