WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Bài Kinh Người Con Gái

Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda

Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh

Chương II
Phật giáo với Nữ giới

Những ưu điểm của Nữ nhân

Những phẩm chất tốt đẹp của nữ nhân

Khác với các quan niệm cổ xưa về thân phận nữ giới, cũng như khác với tầm nhìn của các tôn giáo, giáo hệ khác, xem nữ giới có giá trị thấp kém. Trong Phật giáo, nữ giới đã được nâng cao giá trị, tuy vẫn còn bị hạn chế nhiều mặt do điều kiện nội quan, vị trí nữ giới trong Phật giáo được cải thiện và nâng cao tương đương với nam giới, không thua kém là bao.

Ngay cả quan niệm “trọng nam khinh nữ” ẩn chứa từ bao đời, Đức Phật dùng pháp để chỉnh lý quan điểm này, đồng thời xoá bỏ sự lệch lạc ấy; trả nữ giới về cương vị tốt đẹp mà nữ giới được quyền nhận lãnh.

Kinh Người Con Gái

Trong Tương Ưng Kinh I, chương Tương Ưng Kosala (Kosalasaṃyuttaṃ), Kinh Người Con Gái (Mallikāsuttaṃ)1S.i, 86 ghi nhận:

Khi Đức Thế Tôn ngự trú nơi Đại tự Jetavana, vua Pasenadi đi đến yết kiến Đức Thế Tôn. Sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên.

Rồi một người đi đến vua Pasenadi báo tin kề bên tai vua Pasenadi nước Kosala: “Thưa Đại vương, hoàng hậu Mallikā đã sinh hạ một người con gái”.

Nghe vậy, vua Pasenadi không được hoan hỷ; Biết được tâm vua Pasenadi không được hoan hỷ; Đức Thế Tôn đã nói lên kệ ngôn:

“Này Nhân chủ, ở đời
Có một số thiếu nữ
Có thể tốt đẹp hơn
So sánh với con trai
Có trí tuệ giới đức
Khiến nhạc mẫu thán phục”
“Rồi sinh được con trai
Là anh hùng quốc chủ
Người con trai như vậy
Của người vợ hiền đức
Thật xứng là đạo sư
Giáo giới cho toàn quốc”
Itthīpi hi ekacciyā
Seyyā posa janādhipa
Medhāvinī sīlavatī
Sassudevā patibbatā
Tassā vo jāyati poso
Sūro hoti disampati
Tādisā subhagiyā putto
Rajjampi anusāsatī’ti

(HT. Thích Minh Châu dịch)

Một điều như một quy luật bất thành văn: “nữ nhân không bao giờ được xếp ngang bằng với nam giới, còn nói gì là được xếp cao hơn”.

Trong xã hội cổ cho dù là Đông hay Tây, cho dù là Ấn Độ hay Trung Hoa hay Ba Tư hoặc bất kỳ nước nào, cho dù thuộc đẳng cấp nào quyền quí cao sang hay hàng dân giả, nữ giới luôn luôn được xếp vào thứ yếu, họ chỉ hơn được các nô tỳ của chồng, của cha mẹ, của anh mà thôi.

Tư tưởng “nam trọng nữ khinh”, đã len lỏi vào mọi đẳng cấp từ thường dân cho đến quan chức, vua chúa. Vì sao? Vì rằng chỉ có con trai là người thừa hưởng và gìn giữ gia sản của cha mẹ, còn con gái khi trưởng thành phải gả chồng, phải có của hồi môn mang về nhà chồng để được trọng vọng, tôn vinh; như bà Visākhā chẳng hạn.

Theo Bản Sớ giải kinh Pháp Cú số 53, của hồi môn mà bà Visākhā mang về cho nhà chồng là Trưởng giả Migāra, nhiều hơn tài sản bên chồng, nhờ đó bà Visākhā được nể vì trọng vọng. Còn cô công chúa khi được gả chồng, dĩ nhiên của hồi môn phải cao hơn, của hồi môn của bà Hoàng Videhī con vua Mahā Kosala khi gả cho vua Biṃbisāra, ngoài một số vàng ngọc châu báu còn có một ngôi làng trong xứ Kāsi, lợi tức làng này là tiền trang điểm cho Hoàng hậu Videhī mẹ của vua Ajātasattu2SA.i, 110.

Người nữ chỉ chăm sóc, giữ gìn gia sản bên chồng mà thôi. Do vậy, việc sinh ra một nữ nhân trong gia tộc hay ngay cả Hoàng tộc, đó không phải là một tin vui.

Vua Pasenadi cũng không thoát ra định kiến thông thường này.

Câu kệ ngôn của Đức Phật có thể hiểu như sau: “Thưa Đại vương, vì sao có thể khinh thường nữ nhân? Một số thiếu nữ có thể tốt hơn so với con trai. Nếu như nữ nhân ấy:

– Có trí tuệ, có giới hạnh.

Một nữ nhân có trí có giới dĩ nhiên tốt hơn một nam nhân ngu muội và sống ác giới.

Như vậy giới và trí là điều kiện để nữ giới đạt đến địa vị tốt đẹp. Nam có thể thực hành giới, có trí tuệ; nữ có thể thực hành giới, có trí tuệ, tuy không hoàn toàn ngang nhau do điều kiện nội quan, nhưng rõ ràng người nữ vẫn có chân đứng trong vòng đai giá trị so với nam giới. Dù như thế nào nữ giới vẫn có chân giá trị như nam giới phải không?

Lại nữa, theo kệ ngôn này, Đức Thế Tôn chỉ ra một đặc quyền mà nam nhân không có được. Đó là:

“Rồi sinh được con trai
Là anh hùng quốc chủ…”

Người nữ hiền đức ấy sinh ra người con trai là bâc hiền trí, là bậc anh hùng, là bậc quân tử, bậc tài giỏi, bậc Đạo Sư cho tương lai. Điều này, nam nhân không làm được. Ngoại trừ Chư Thiên, Phạm Thiên ra, nhân loại phải sinh ra từ bụng mẹ, nữ nhân ấy trở thành người mẹ của đấng kỳ tài. Do vậy, phải trả về cho nữ nhân đặc quyền này và giá trị không thể thua kém nam nhân.

Thái độ tôn trọng địa vị cao quí đó là thái độ biết ân của người có trí. Thật không một câu nào có thể tuyệt vời và ý nhị hơn kệ ngôn trên.

Địa vị nữ nhân được nâng lên tầm cao chính là giới hạnh mà nữ nhân thọ trì gìn giữ, cùng với trí tuệ được trui rèn.

Với người thực hành pháp, thành tựu giới luật tu tập thiền định, người ấy bất luận là nam hay nữ, tất cả đều được người và thiên nhân ngưỡng mộ.


Ghi chú:

  • 1
    S.i, 86
  • 2
    SA.i, 110