Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda
Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh
Chương III
Khôi Phục Tỳ Khưu Ni Theo Hệ Phái Nam Truyền
Đây là một lập luận để bảo vệ quan điểm phục hồi hội chúng Tỳ Khưu Ni Theravāda, lập luận này dường như có tính hợp lý và thuyết phục cao.
Lập luận này được dựa vào Tạng Luật, bộ Đại Phẩm tập hai (Mahāvagga), chương Dược Phẩm (bhesajjakkhandhakaṃ), Đức Thế Tôn dạy các Tỳ Khưu rằng:
– Này các Tỳ Khưu, điều nào Ta chưa cấm rằng:
1. “Điều này không được phép”, và điều ấy phù hợp với điều không được phép và trái nghịch với điều được phép; đối với các ngươi điều ấy là không được phép.
2. Này các Tỳ Khưu, điều nào Ta chưa cấm rằng: “Điều này không được phép”, và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép.
3. Này các Tỳ Khưu, điều nào Ta chưa cho phép rằng: “Điều này được phép”, và điều ấy phù hợp với điều không được phép và trái nghịch với điều được phép; đối với các ngươi điều ấy là không được phép.
4. Này các Tỳ Khưu, điều nào Ta chưa cho phép rằng: “Điều này được phép”, và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép.
Dựa theo bốn đại cứ pháp này, các vị ủng hộ việc khôi phục Hội chúng Tỳ Khưu Ni Theravāda, cho rằng chư Tăng có quyền phục hồi Ni đoàn, việc làm này theo điều (2) và điều (4) là hợp lý.
Dịch phẩm trang 45 có ghi:
“Áp dụng những nguyên tắc hướng dẫn trên đối với vấn đề chư Tăng có quyền phục hồi lại Ni đoàn hay không (một trong hai cách đã thảo luận hay sự kết hợp cả hai), chúng ta có thể thấy rằng làm như vậy là “theo với những gì đã được cho phép” và không nằm ngoài bất cứ điều gì khác đã được cho phép. Như vậy đây là điều rõ ràng nằm trong điều khoản (2) và (4)”.
Dịch phẩm trang 44 cho rằng “Trong khi không có một sắc lệnh như vậy trong kinh văn Tạng Luật và chú giải của Nó (lại là nó), về sự phán quyết rằng một lễ thọ giới cho Ni bởi chư Tăng là phạm Luật thì chỉ là một sự diễn giải”. Vậy xin hỏi: Trong Tạng Luật lẫn chú giải hay bất kỳ một đoạn kinh văn nào cho phép “Chư Tăng được phép phục hồi hội chúng Ni”; các vị chủ trương cho Ni giới thọ giới Tỳ Khưu Ni là hợp pháp; đó có phải là một sự diễn giải không? Vì sao cho rằng: “Lễ thọ giới cho Ni bởi chư Tăng là phạm Luật thì đó chỉ là diễn giải”, còn phục hồi hội chúng Ni bằng một trong hai cách: thọ giới đơn hay thọ giới kép là hợp Luật, không phải là sự diễn giải? Lý lẽ ấy không thuyết phục, vì cả hai (nếu cho là diễn giải) đều là diễn giải. Có điều: “Điều diễn giải nào là hợp lý?” mà thôi.
Dịch phẩm cho rằng, “Tôi muốn hỏi rằng nó là sự diễn giải mà chúng ta nên giữ hay không, khi làm như vậy nó sẽ: Làm cho những ai không có tín tâm không thể sinh khởi tín tâm; những ai có tín tâm nghi niềm tín tâm của mình”. Tôi thật không hiểu tín tâm mà dịch phẩm đề cập là loại tín tâm gì? Có phải sinh khởi tín tâm, tăng trưởng tín tâm do thấy nữ giới được phẩm vị Tỳ Khưu Ni? Niềm tín tâm ấy không phải do học hỏi, suy ngẫm và thực hành pháp của Đức Thế Tôn đã giảng dạy?
Niềm tín tâm sinh khởi, tăng trưởng do vẻ hào nhoáng bên ngoài, mang tính hình thức hơn là niềm tin đặt vào con đường thanh lọc nội tâm, thoát ra những ô nhiễm trói buộc. Niềm tin vào hình thức bên ngoài ấy là đúng phải không?
Dịch phẩm trang 30 có nêu ra: “Khi chúng ta dự tính làm cách nào để thích hợp nhất cho việc này, chúng ta không nên hỏi Đức Phật đã làm gì 2500 năm trước, mà nên nghĩ Ngài muốn chúng ta làm gì trong điều kiện hiện tại của chúng ta. Nếu người ta thấy đạo Phật Nguyên thuỷ là một tôn giáo chỉ tính phái nam xuất gia mà loại bỏ phụ nữ khỏi việc xuất gia với giới pháp đầy đủ, họ sẽ nghĩ rằng có cái gì đó xiên lệch một cách căn bản”.
Ở đây, nếu người có niềm tin vào sự chứng ngộ Chánh Đẳng Giác của Đức Thế Tôn, nếu Ngài muốn chúng ta phải làm gì khi Tỳ Khưu Ni vắng bóng, hẳn nhiên Đức Phật đã có di huấn, chẳng hạn như: “Sau khi Như Lai viên tịch, nếu hội chúng Tỳ Khưu Ni có vắng bóng, các Tỳ Khưu có thể khôi phục lại Tỳ Khưu Ni”. Điều này không có bất kỳ nơi nào trong kinh điển.
Khi đặt ra “Đức Phật muốn chúng ta làm gì” đó là một điều tưởng tượng, là sự suy luận, là sự diễn giải. Việc biết được ý muốn của Đức Phật sau khi Ngài viên tịch, đó là một điều vượt ngoài khả năng phàm nhân. Ngay cả Ngài Sāriputta khi nghe Đức Thế Tôn hỏi một câu hỏi, Ngài Sāriputta không nắm bắt được Đức Thế Tôn muốn hỏi về vấn đề gì1DhpA. Câu số 181.
Một điều diễn giải khác của dịch phẩm: Điều này được trích dẫn từ Tăng Chi Kinh, Chương Sáu Pháp, kinh Tôn giả Kimbila (Kimbilasuttaṃ) (AN40)2A.vi, 340:
Khi Đức Thế Tôn trú ở Kimbila, rừng Nicula. Rồi Tôn giả Kimbila đi đến Thế Tôn, sau khi đảnh lễ rồi ngồi xuống một bên bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, sau khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp (Saddhamma) không còn tồn tại lâu dài.
– Ở đây, này Kimbila, khi Như Lai nhập diệt (Tathāgate parinibbute), Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống không cung kính, không tuỳ thuận bậc Đạo sư.
Sống không cung kính, không tuỳ thuận Pháp.
Sống không cung kính, không tuỳ thuận chúng Tăng.
Sống không cung kính, không tuỳ thuận học pháp (sikkhāya).
Sống không cung kính; không tuỳ thuận, không phóng dật (appamāde).
Sống không cung kính, không tuỳ thuận tiếp đón (paṭisanthāre)
Này Kimbila, đây là nhân, đây là duyên khiến cho khi Như Lai nhập diệt, diệu pháp không tồn tại lâu dài.
Về sự biến mất diệu pháp (Saddhamma), sách Milindapañha, phẩm I. Năng Lực Thần Thông (iddhibalavagga), câu số 7:
Ngài Nāgasena trả lời vua Milinda rằng:
– Thưa Đại vương, đây là ba sự biến mất của Giáo Pháp (sāsanantaradhānāni). Ba điều gì? Sự biến mất của việc chứng đắc (adhigamantaradhānaṃ), sự biến mất của việc thực hành (paṭipattantaradhānaṃ), Sự biến mất tướng mạo (liṅgantarabhānaṃ) “Diệu pháp không tồn tại lâu dài” ở đây chỉ cho sự chứng đắc Thánh quả.
Dịch phẩm trang 20 cho rằng:
“Đức Phật không muốn hội chúng Ni tan rã trước khi Tăng đoàn biến hoại”. Đây là một sự tưởng tượng và diễn giải của dịch phẩm.
Trước tiên nói về sự biến hoại tan rã. Không bao giờ có sự biến hoại tan rã đồng bộ trong giáp pháp này cả, phải có điều trước điều sau. Như trong Bản Sớ giải kinh Tăng Chi3AA.i, 87 có giải về năm loại tiêu hoại (antaradhāna) như đã phân tích ở trên, đây chỉ tóm tắt và bổ sung:
1. Adhigama antaradhāna: Tiêu hoại pháp thành
2. Paṭipatti antaradhāna: Tiêu hoại pháp hành
3. Pariyatti antaradhāna: Tiêu hoại pháp học
4. Linga antaradhāna: Tiêu mất Tăng tướng, là không còn mặc y casa nữa.
5. Dhātu antaradhāna: Tiêu mất Xá lợi Phật
Còn về sự tiêu hoại thì có sự diễn tiến như sau:
Khoảng từ 2000-3000 năm Phật lịch, Tạng Thắng pháp (Abhidhammapiṭaka) bị hoại, hoại từ bộ Paṭṭhāna (vị trí) trước, rồi đến bộ Yamaka (song đối), tiếp theo là bộ Kathāvatthu (luận điểm), Puggalapaññatti (nhân chế định), Dhātukathā (nguyên chất ngữ), Vibhaṅga (phân tích) cuối cùng là bộ Dhammasaṅgaṇī (Pháp tụ).
Khoảng 3000 – 4000 Tạng Kinh (Suttapiṭaka) hoại; trước tiên là bộ Aṅguttaranikāya (Tăng Chi Kinh) rồi đến bộ Samyuttanikāya (Tương Ưng Kinh), tiếp theo là Majjhimanikāya (Trung bộ kinh), rồi bộ Dīghanikāya (Trường Bộ Kinh).
Khoảng 4000 – 5000 năm Phật lịch thì Tạng Luật hoại, trước tiên là bộ Parivāra (Tập yếu) rồi đến bộ Cullavagga (Tiểu phẩm), rồi Mahāvagga (Đại phẩm), Bhikkhunīvibhaṅga (Phân tích giới Tỳ Khưu Ni), sau cùng là Bhikkhuvibhaṅga (Phân tích giới Tỳ Khưu).
Như vậy cho rằng: “Đức Phật không muốn Hội chúng Ni tan rã trước khi Tăng đoàn biến hoại” là điều không tưởng, là một ảo tưởng, là một sự diễn giải, điều này không có cơ sở để thuyết phục.
Mặc khác, đối với những Hội chúng bất kính Tam Bảo, được xem như những phản đồ. Những phản đồ còn muốn giữ lại làm gì? Những con ngựa bướng bỉnh làm hư hoại đàn ngựa hiền thiện, người huấn luyện ngựa thiện xảo sẽ giết bỏ4A.ii, 112. Cũng vậy, với những kẻ được xem là phản đồ, không thể được huấn luyện, Đức Thế Tôn sẽ từ bỏ, như khi Tôn giả Devadatta đã phản bội Đức Thế Tôn, Đức Thế Tôn dạy Ngài Sāriputta công bố về Tôn giả Devadatta trong thành Rājagaha như sau: “Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đã khác. Việc gì Devadatta làm bằng thân hoặc bằng lời nói, không nên xem điều ấy là của Đức Phật, Đức Pháp hoặc của Đức Tăng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta (theo Luật Tiểu Phẩm (Cullavagga), VII. Chương Chia Rẽ Hội Chúng (Saṅghabhedakkhandhakaṃ)).
Như vậy hội chúng nào bất kính Tam Bảo, hội chúng ấy không được nói đến, không được giáo giới5xem Tăng Chi Kinh, chương Bốn Pháp, kinh Kesi A.ii, 112.
Và điều này cho chúng ta cảm nghĩ: sau hai ngàn năm Phật lịch, không còn Thánh quả A La Hán, vai trò của Tỳ Khưu Ni không còn quan trọng nên Đức Thế Tôn không di ngôn phục hồi Hội chúng Tỳ Khưu Ni.
Một điều rõ ràng nhất, trong thời Đức Phật hay sau này, Đức Thế Tôn chỉ muốn đệ tử của mình học pháp và thực hành pháp.
Theo Bản Sớ giải Kinh Pháp Cú câu số 1. Trong Giáo Pháp này có hai phận sự (dhura) là:
– Phận sự học pháp (ganthadura) là học hỏi, suy ngẫm, nghiên cứu Phật ngôn.
– Phận sự hành pháp (vipassanādhūra), là thực hành theo lời dạy của Đức Thế Tôn, để rèn luyện hành động, lời nói, ý tưởng tốt đẹp để đạt đến mục tiêu giải thoát (Dhp A.i, 7).
Trong Tăng Chi Kinh, Chương Hai Pháp, Phẩm III, Người Ngu (Bālavagga), bài kinh số 106A.i, 61, Đức Thế Tôn dạy:
– Có hai pháp này, này các Tỳ Khưu, thuộc thành phần minh (vijābhāgiyā). Thế nào là hai? Chỉ tịnh (Samatha) và Minh sát (vipassanā).
– Chỉ tịnh được tu tập, này các Tỳ Khưu, chờ đợi lợi ích gì? Tâm được tu tập. Tâm được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc về tham được đoạn tận.
– Minh quán được tu tập, này các Tỳ Khưu, chờ đợi lợi ích gì? Tuệ được tu tập. Tuệ được tu tập, chờ đợi lợi ích gì? Cái gì thuộc vô minh được đoạn tận. Bị tham là uế nhiễm, này các Tỳ Khưu, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập.
Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát.
Như vậy, niềm tin đặt vào Pháp Luật có tốt đẹp hơn so với niềm tin đặt vào sự thọ giới Tỳ Khưu Ni với hình thức bên ngoài hay không? Và Đức Phật chỉ khen ngợi người đệ tử học pháp và tinh cần hành pháp để giải thoát khỏi luân hồi mà thôi.
Điều mà Giáo Pháp của Đức Thế Tôn được bền vững hưng thịnh, không bị thối giảm do hàng tứ chúng thực hành những pháp bất thối như đã được trình bày trước đó, không phải là việc cho nữ giới được thọ giới pháp Tỳ Khưu Ni như bản dịch phẩm trình bày ở trang 31.
Trong dịch phẩm, trang 34 ghi nhận: “Khi tôi quyết định kiểm tra lại các nguồn tài liệu thuộc Luật Tạng và chú giải của chúng (lại là sự tuỳ tiện dùng từ của dịch giả) trên vấn đề này, tôi đã không tìm thấy bất cứ điều gì phản chứng lại những lời của họ”, tiếp theo dịch phẩm quy kết cho những vị trì luật đóng khung trong một khung trời riêng, mà dịch giả gọi là không gian Euclide, trước đó dịch bản cũng có đề cập đến không gian hình cầu của nhà toán học Nga Ivanovich Lobachevsky, rồi: “Hãy cho tôi một khoảng không và chúng ta có thể tạo ra một tam giác với ba góc vuông làm thành tổng số là 270° độ. Như vậy, nếu tôi phá vỡ (khung nhận thức) của những giả định đã quen, một dãy các triển vọng mới đột nhiên mở ra trong tầm nhận thức của tôi”.
Như vậy, theo lời của dịch bản: Các vị Trì Luật đã đúng với khung trời của mình; còn dịch phẩm muốn “phá vỡ (khung trời nhận thức) của những giả định đã quen”. Vấn đề này tôi sẽ có ý kiến sau:
Trang 35 của dịch phẩm có nêu ra một loạt các câu hỏi nhất là “điều gì sẽ xảy ra?”. Vậy điều xảy ra sẽ như thế nào? Có chắc là tốt hơn hay sẽ tệ hơn so với điều cũ? Có ai biết chắc kết quả của việc đứng ra ngoài không gian cũ có thể tạo ra điều tốt đẹp hơn không gian cũ không?
Ở đây, không gian cũ là khung trời Giới- Định- Tuệ, khung trời giải thoát khổ luân hồi mà Đức Thế Tôn nỗ lực xây dựng. Trong Trung Bộ Kinh I, bài kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddūpamasuttaṃ) (MN22)7M.i, 130, Đức Thế Tôn dạy:
– “Này các Tỳ Khưu, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”.
– Pubbe cāham bhikkhave etarahi ca dukkhañ- c’eva paññapemi dukkhassa ca nirodhaṃ
Trong Trường Bộ II, bài Kinh Mahāparinibbāna (Đại Viên Tịch) (DN16)8D.ii, 72, Đức Thế Tôn dạy:
– Này Subhadda, trong Pháp Luật nào không có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy không có (đệ nhứt) Sa môn, ở đấy cũng không có đệ nhị Sa môn, cũng không có đệ tam Sa môn, cũng không có đệ tứ Sa môn.
– Này Subhadda, trong Pháp Luật nào có Bát Thánh Đạo, thời ở đấy có (đệ nhứt) Sa môn, cũng có đệ nhị Sa môn, cũng có đệ tam Sa môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa môn.
– Này Subhadda, chính trong Pháp Luật này có Bát Thánh Đạo thời, này Subhadda, ở đây có đệ nhất Sa môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa môn, cũng có đệ tam Sa môn, cũng có đệ tứ Sa môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có bốn bậc Sa môn.
Đoạn kinh trên cho thấy khung trời Đức Phật dày công xây dựng chính là Bát Thánh Đạo, là Giới – Đinh – Tuệ.
Theo Luật Tạng và Kinh Tạng, việc chế định học giới (Sikkhāpadapaññatti) của Đức Thế Tôn cho các hàng đệ tử nhằm vào mười mục đích.
1. Để tăng chúng được cực thiện (Saṅghasuṭṭhutāya).
2. Để Tăng chúng được an vui (Saṅghaphāsutāya).
3. Để chận đứng những người cứng đầu (dummaṅkūnaṃ puggalānaṃ niggahāya).
4. Để các thiện Tỳ Khưu sống được an vui (pesalānaṃ bhikkhūnaṃ phāsuvihārāya).
5. Để chế ngự các ô nhiễm (āsava) ngay trong hiện tại (diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya).
6. Để chận đứng các ô nhiễm trong tương lai (Saṃparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāya).
7. Để tạo niềm tin cho những người chưa tin (appasannānaṃ pasādāya).
8. Để tăng trưởng niềm tin cho những người đã tin (pasannānaṃ bhiyyobhāvāya).
9. Để duy trì chánh pháp (Saddammaṭṭhitiyā).
10. Để nâng đỡ Luật Tạng (Vinayānuggahāya).9Vin.iii, 20; Tăng Chi Kinh, Chương Mười Pháp, phẩm Upāli và Ananda A.v, 70
Theo đoạn kinh văn trên, sự chế định học giới của Đức Thế Tôn mang lại niềm tin cho những ai chưa có niềm tin, làm tăng trưởng niềm tin cho những ai đã có niềm tin.
Nhưng dịch phẩm đã bỏ qua dạng niềm tin này, chỉ tin tưởng vào hình thức Tỳ Khưu Ni bên ngoài, không tìm hiểu phẩm chất bên trong có tốt đẹp hay không để đặt niềm tin; đó thật là một điều đáng buồn cho loại niềm tin này, và Đức Thế Tôn không tán thán loại niềm tin ấy.
Trong Trung Bộ Kinh II, kinh Mahā Sakuludāyi (MN77)10M.ii,1:
Du sĩ Sakuludāyi cho rằng Đức Thế Tôn có năm pháp, do năm pháp này, các đệ tử cung kính, tôn trọng, kính lễ, cúng dường và sống nương tựa vào Đức Thế Tôn. Năm pháp đó là:
1. Ăn ít và tán thán hạnh ăn ít.
2. Biết đủ với bất cứ loại y nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ loại y nào.
3. Biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ món ăn khất thực nào.
4. Biết đủ với bất cứ sàng toạ nào và tán thán hạnh biết đủ với bất cứ sàng toạ nào.
5. Sống viễn ly và tán thán hạnh viễn ly.
Và Đức Phật dạy sự cung kỉnh, tôn trọng cúng dường và sống nương tựa vào Đức Thế Tôn như thế là không thích hợp.
Đức Thế Tôn dạy do năm pháp này mà các đệ tử cung kỉnh, tôn trọng, cúng dường và sống nương tựa vào Đức Thế Tôn, đó là:
1. Sa môn Gotama là vị có giới hạnh và thành tựu Giới uẩn tối thượng.
2. Có tri kiến vi diệu.
3. Sa môn Gotama là vị có trí tuệ và thành tựu Tuệ uẩn tối thượng.
4. Đã chứng đạt bốn sự thật bậc Thánh và thuyết giảng về bốn sự thật ấy.
5. Thuyết giảng đến các pháp dẫn đến giác ngộ như Bốn Niệm Xứ, Bốn Chánh Cần, Bốn Như Ý…
Như vậy, niềm tin đặt vào phẩm chất tốt đẹp của Pháp Luật Đức Thế Tôn là tốt đẹp hơn niềm tin suông vào hình thức bên ngoài.
Trong Trung Bộ Kinh I, Bài Kinh Tiểu Ví Dụ Dấu Chân Voi (Cūḷahatthipadopamasutta) (MN27)11M.i, 175 cũng có nội dung tương tự.
Khung trời của Đức Thế Tôn xây dựng là khung trời giải thoát, khung trời ấy cần thiết phải đóng khung bằng ba đường vạch Giới- Đinh- Tuệ (đây là câu trả lời câu hỏi thứ nhất của dịch phẩm trang 35) đứng ra bên ngoài khung trời ấy là đánh mất sự giải thoát khổ luân hồi; và điều gì sẽ xảy ra?
Sự tệ hại hơn sẽ có được, sẽ thành tựu, sẽ còn đau khổ triền miên và có thể dẫn xuống khổ cảnh (nếu không tin vào lý nhân quả và nghiệp báo).
Trở lại lập luận dựa vào bốn đại cứ pháp (Mahāpadesa) mà dịch phẩm đề cập. Dịch phẩm cho rằng: “Việc khôi phục hội chúng Ni Theravāda” phù hợp với điều (2) và (4).
Điều (2) như sau: “Này các Tỳ Khưu, điều nào Ta chưa cấm rằng: “Điều này không được phép” và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép”.
Điều (4) như sau: “Này các Tỳ Khưu, điều nào Ta chưa cho phép rằng: “Điều này được phép” và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi điều ấy là được phép”.
Nghĩa là: Điều Đức Thế Tôn chưa ngăn cấm và điều Đức Thế Tôn chưa cho phép; điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, điều ấy được phép làm.
Vậy các Tỳ Khưu cho nữ cư sĩ được thọ giới Tỳ Khưu Ni hay hội chúng Tỳ Khưu cho nữ giới tử là cô Ni chưa thực hành học tập sáu pháp trong hai năm được xuất gia Tỳ Khưu Ni có phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép chăng?
Như đã trình bày ở trước đó; điều học được Đức Thế Tôn phụ chế định (anupaññatti) xem như huỷ bỏ điều chế định trước, được thay thế bằng sự chế định tiếp theo giống như sự di chúc thứ hai là huỷ bỏ sự di chúc thứ nhất, sự di chúc thứ ba huỷ bỏ sự di chúc thứ hai…
Theo Tạng Luật bộ Tiểu Phẩm (Cullavagga), chương Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīkhandhakaṃ). Trước tiên Đức Thế Tôn cho phép các Tỳ Khưu cho năm trăm nữ nhân thuộc bộ tộc Sākya và Koliya xuất gia trở thành Tỳ Khưu Ni, tiếp theo Tỳ Khưu được phép hỏi hai mươi bốn pháp chướng ngại của nữ giới tử, rồi điều này được giao lại cho các Tỳ Khưu Ni, các Tỳ Khưu Ni được phép hỏi hai mươi bốn chướng ngại pháp của nữ nhân, rồi cho các nữ giới tử đã thực hành sáu học pháp tròn đủ hai năm thọ giới Tỳ Khưu Ni, được gọi là “người nữ tu lên bậc trên từ một phía, được trong sạch ở hội chúng Tỳ Khưu Ni”; và Đức Thế Tôn phụ chế định (anupaññatti) lần cuối về điều này.
– Này các Tỳ Khưu, ta cho phép người nữ tu lên bậc trên từ một phía, sau khi được trong sạch ở hội chúng Tỳ Khưu Ni, rồi được tu lên bậc trên ở hội chúng Tỳ Khưu.
Như vậy, Tỳ Khưu chỉ còn được phép cho Tỳ Khưu Ni đã được thọ giới bậc trên từ một phía, được thọ giới tu lên bậc trên nơi hội chúng Tỳ Khưu.
Nghĩa là Hội chúng Tỳ Khưu không còn được phép cho Sadi Ni hay nữ giới tử đã thực hành sáu pháp trong hai năm lên Tỳ Khưu Ni.
Lại nữa, Tỳ Khưu cũng không được phép cho nữ giới thọ Sadi Ni, tuy điều này chưa thấy Đức Thế Tôn ngăn cấm (vì trong thời Đức Phật không có vị Tỳ Khưu nào cho nữ giới xuất gia Sa di Ni). Nhưng cũng không thấy được Đức Thế Tôn cho phép. Vì các Ngài tuân thủ theo lời dạy của Đức Thế Tôn: “Điều nào chưa được Đức Thế Tôn quy định thì không nên quy định; điều nào đã được Đức Thế Tôn quy định thì không nên huỷ bỏ”.
Như vậy: Tỳ Khưu cho nữ giới thọ giới Tỳ Khưu Ni là điều không được phép; trái nghịch với điều được phép. (điều 1 và điều 3).
Lại nữa, Tỳ Khưu Ni Theravāda không có thì không thể có Sadi Ni Theravāda, không có Sadi Ni Theravāda dẫn đến không có Sikkhāmānā (Thức xoa ma na) Theravāda.
Muốn thọ giới Tỳ Khưu Ni phải qua bước trung chuyển là Sikkhāmānā; nhưng Sikkhāmānā không có thì không thể có sự thành tựu Tỳ Khưu Ni một phía, và dẫn đến không có sự cho tu lên giới bậc trên cho nữ giới từ hai hội chúng Ni và Tăng.
Lại nữa, từ khi Đức Thế Tôn chế định học giới “vị Tỳ Khưu Ni nào tiếp độ cô Ni tập sự (sikkhamānā) chưa thực hành việc học tập về sáu pháp trong hai năm thì phạm ưng đối trị (pācittiya)”.
Điều học được Đức Thế Tôn chế định cho các Tỳ Khưu Ni, các Tỳ Khưu Ni không dám vượt qua.
Trong bộ Cullavagga (Tiểu Phẩm) tập II của Luật Tạng, chương Tỳ Khưu Ni (bhikkhunīkhandhakaṃ), tụng phẩm hai (dutiyabhāṇavāra) ghi nhận: “Ngay cả việc hành phạt đối với các Tỳ Khưu Ni là ngăn cấm (đi vào trú xứ của Tỳ Khưu), các Tỳ Khưu Ni không chấp hành, và Đức Thế Tôn đã trừng phạt là “đình chỉ việc giáo giới” (số 22, 23).
Đình chỉ giáo giới đối với Tỳ Khưu Ni, được xem như tạm thời bị trục xuất khỏi Ni đoàn, vì ngay cả lễ Uposatha, vị Tỳ Khưu Ni bị đình chỉ việc giáo giới cũng không được phép thực hiện. Như lời dạy của Đức Thế Tôn: “Này các Tỳ Khưu, lễ Uposatha không nên thực hiện với Tỳ Khưu Ni bị đình chỉ giáo giới cho đến khi nào sự tranh tụng ấy còn chưa được giải quyết”.
Điều được Đức Thế Tôn quy định, cố ý vượt qua, xem như chống lại Đức Thế Tôn, đồng nghĩa như một nghịch đồ, một phản đồ.
Và hội chúng Tỳ Khưu Ni cho giới tử Ni chưa thực hành học tập sáu pháp trong hai năm, giới tử Ni ấy có thành tựu Tỳ Khưu Ni không? Câu trả lời là: “Khi Đức Thế Tôn chưa chế định học giới này thì vị ni tế độ sư vô tội và cô giới tử Ni thành tựu phẩm mạo Tỳ Khưu Ni”; nhưng khi Đức Thế Tôn đã chế định học giới, vị Ni tế độ sư phạm pācittiya, vị ni sư tuyên ngôn và hội chúng ni phạm dukkaṭa (tác ác), xem như giới tử ni ấy không thể thành tựu giới phẩm Tỳ Khưu Ni. Vì sao? Vì hạt giống đã bị bể, đã bị hư hoại không thể nẩy mầm.
Trong Tương Ưng Kinh V, chương Tương Ưng Dự Lưu (Sotāpattisaṃyuttaṃ), kinh Saraṇānisakka (2) (dutiyasaranānisakkasuttaṃ)12S.v, 378, Đức Thế Tôn dạy Thích tử Mahānāma:
“Ví như này Mahānāma, có đám ruộng xấu, đám đất xấu, các gốc cây chưa được phá huỷ, các hạt giống bị bể nát, bị hư thối, bị gió nắng làm cho hư hoại, không thể nẩy mầm…”
Do vị Ni sư tế độ phạm pācittiya, vị Ni sư tuyên ngôn phạm tác ác (dukkaṭa), hội chúng Ni chứng minh phạm dukkaṭa (tác ác) ví như hạt giống bị bể vụn, bị hư hoại, không thể nảy mầm là Tỳ Khưu Ni được hình thành.
Theo đúng tinh thần Luật Tạng là như thế (dĩ nhiên không đề cập đến việc phá vỡ hàng rào Luật Tạng).
Điều này không phải là một sự diễn giải như dịch phẩm nêu nơi trang 44; mà đó là một điều hiện thực được căn cứ vào Luật Tạng.
Một câu hỏi được nêu ra là: “Trước nhu cầu được xuất gia của nữ giới trong Giáo Pháp này; đây là một nhu cầu chánh đáng, một nguyện vọng cao thượng cần phải đáp ứng. Chư Trưởng Lão Tăng phải xử lý như thế nào vừa hợp Luật vừa hợp với nguyện vọng cao quý này?”
Chính chư Trưởng Lão Tăng đã áp dụng bốn đại cứ pháp này, cho nữ giới được xuất gia trong Giáo Pháp theo truyền thống Theravāda với chức danh là Tu nữ, giữ gìn tám giới hoặc mười giới (gọi là mười giới, thật ra chỉ thêm một giới là “Không thọ nhận tiền, vàng bạc” mà thôi).
Dịch phẩm trang 26 cho rằng: “Sự kiện đơn giản là các hình thức thọ giới cấp thấp đó không thoả mãn niềm khát khao phát triển tâm linh của nhiều phụ nữ, nó cũng không cho họ có cơ hội được huấn luyện và học tập như Giáo Pháp đã được trao truyền bởi Đức Từ Phụ”.
Đọc những hàng nêu trên của dịch phẩm, tôi muốn hỏi ‘niềm khát khao phát triển tâm linh của nhiều phụ nữ’ đó là gì? Như thế nào được gọi là “điều phát triển tâm linh?”. Đó có phải là thực hành con đường Giới- Định- Tuệ không? Hay muốn phát triển tâm linh theo con đường Giới – Định – Tuệ phải là Tỳ Khưu Ni? Những nữ nhân không phải là Tỳ Khưu Ni, những nữ nhân ấy không thể tu tập thành công Giới- Định- Tuệ phải không? Có ai có khả năng ngăn cản nữ nhân thực hành Giới- Định- Tuệ chưa? Và nhiều phụ nữ có phải khát khao phát triển tâm linh đúng theo lời dạy của Đức Thế Tôn hay khao khát được danh xưng là Tỳ Khưu Ni? (về câu hỏi này, tôi nghĩ không cần phải trả lời vì rất rõ ràng như một cộng một bằng hai).
Đức Thế Tôn huấn luyện và dạy chúng đệ tử của Ngài như thế nào? Nói ngắn gọn Đức Thế Tôn dạy các đệ tử của mình là Giới Định Tuệ: như trong Trường Bộ II, kinh Đại Viên Tịch (Mahāparinibbānasuttaṃ) (DN16)13D.ii, 72: Đức Thế Tôn khi trú ngụ ở Koṭigāma, Đức Thế Tôn dạy các Tỳ Khưu rằng:
– Này các Tỳ Khưu, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu bốn Thánh đế (Catunnaṃ ariyasaccānaṃ) mà chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các ngươi.
– Bốn Thánh đế đó là gì? Là Khổ Thánh đế (dukkha ariyasacca); Khổ tập Thánh đế (dukkhasamudaya ariyasacca); Khổ diệt Thánh đế (dukkha nirodhasacca); Khổ diệt đạo Thánh đế (dukkha nirodhagāminīpaṭipadā ariyasacca).
Đức Thế Tôn dạy thêm rằng:
– Chính vì không thấy như thật bốn Thánh đế, nên có sự luân chuyển lâu ngày trong nhiều đời.
Khi những sự thật này được nhận thức nguyên nhân của một đời sống khác được trừ tuyệt.
Tương Ưng Kinh V, chương Tương ưng Sự Thật (Saccasaṃyuttaṃ), kinh Thiền Tịnh (patisallānasuttaṃ)14S.v, 414, Đức Phật dạy:
– Này các Tỳ Khưu, hãy chú tâm tu tập thiền tịnh, Tỳ Khưu tu tập thiền tịnh, này các Tỳ Khưu, như thật rõ biết (payānāti). Và như thật rõ biết cái gì?
– Như thật rõ biết: Đây là khổ.
– Như thật rõ biết: Đây là khổ tập
– Như thật rõ biết: Đây là khổ diệt
– Như thật rõ biết: Đây là con đường đưa đến khổ diệt.
Do vậy, này các Tỳ Khưu, một cố gắng cần phải làm để rõ biết. Đây là khổ, một cố gắng cần phải làm để rõ biết. Đây là khổ tập, một cố gắng cần phải làm để rõ biết. Đây là khổ diệt, một cố gắng cần phải làm. Đây là con đường đưa đến khổ diệt.
Trong Trường Bộ Kinh III, kinh Phúng Tụng (Saṅgītisutta) (DN33)15D.iii, 207:
Trưởng lão Sāriputta đã gom tất cả các pháp môn được Đức Thế Tôn bậc A La Hán Chánh đẳng giác thuyết giảng, thành lập các pháp ấy có hệ thống là một pháp, hai pháp cho đến mười pháp. Trưởng lão Sāriputta đã thuyết giảng: “Nhưng với chúng ta, này các hiền giả; Pháp này được Đức Thế Tôn khéo giảng dạy, khéo trình bày, một chánh pháp có hiệu năng hướng dẫn (niyyāniko), hướng đến an tịnh (upasama – saṃvattaniko), do vị Chánh Đẳng Giác trình bày. Ở đây, tất cả mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc không cãi cọ nhau, để Phạm hạnh được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho Chư thiên và loài người”.
Trong các nhóm từ một pháp đến mười pháp, không có điều nào là dành riêng cho Tỳ Khưu Ni, tất cả hàng tứ chúng đều có quyền học tập và tu tập. Điển hình như ba học giới chẳng hạn.
Ba học giới: Tăng thượng Giới học (adhisīlasikkhā); Tăng thượng Tâm học (adhicittasikkhā); Tăng thượng Tuệ học (adhipaññāsikkhā). Hoặc là:
Ba sự tu tập (tissobhāvanā): Thân tu tập (kāyabhāvanā); Tâm tu tập (cittabhāvanā); Tuệ tu tập (paññābhāvanā).
Sự “Tăng thượng Giới học” không phải do nương vào số lượng giới, tăng thượng giới học do nương vào phẩm chất của giới. Phẩm chất của giới là gì? Là Giới được bậc Thánh ái kính.
Trong Tăng Chi Kinh, Chương Năm Pháp, Kinh Cundī (Cundīsuttaṃ) (AN2)16A.iii, 35, Đức Thế Tôn dạy công chúa Cundī (con gái của vua Bimbisāra):
– Dầu cho loại giới nào, này Cundī, các giới được bậc Thánh ái kính được gọi là tối thượng trong các giới ấy, tức là giới không bị bể vụn, không bị sứt mẻ, không bị vết chấm, không bị uế nhiễm, đem lại giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp thủ, đưa đến chánh định.
Với những ai làm cho đầy đủ trong các Giới Luật được các bậc Thánh ái kính, họ làm cho đầy đủ những gì tối thượng.
Hẳn nhiên, việc học tập Giáo Pháp để thấu triệt bốn sự thật bậc Thánh là: Đây là sự khổ, đây là nguyên nhân sanh khổ, đây là sự khổ diệt, đây là con đường dẫn đến khổ diệt; Và rèn luyện ba học giới: tăng thượng giới học, Tăng thượng tâm học, Tăng thượng tuệ học.
Không một ai dám ngăn cản, cho dù đó là bậc Thánh chứ đừng nói là các bậc Trưởng lão trì Luật. Sở dĩ các Ngài Trưởng lão thông Luật, trì Luật không chấp nhận việc phục hồi hội chúng Tỳ Khưu Ni, không chấp nhận Tỳ Khưu Ni tân lập vì Luật của Đức Thế Tôn đã ban hành, không chấp nhận là hợp pháp. Nghĩa là: “Nếu lễ thọ giới Tỳ Khưu Ni hợp Pháp Luật thì các vi Trưởng Lão không hề dám phản đối. Nhưng vì sự tiến hành cho thọ giới Tỳ Khưu Ni vượt qua ranh giới của Luật, không thành tựu giới phẩm Tỳ Khưu Ni theo truyền thống Theravāda, thì làm sao các Ngài Trưởng Lão giữ Luật chấp nhận. “Đó là Tỳ Khưu Ni Theravāda” được.
Như đã nói ở trên, trước nhu cầu và nguyện vọng được xuất gia trong Giáo Pháp này, một nhu cầu thiết thực, một nguyện vọng chánh đáng, các vị Trưởng lão Theravāda đã áp dụng bốn đại cứ pháp đã được Đức Thế Tôn cho phép, thành lập một hội chúng nữ giới xuất gia mới, đó là Hội chúng Tu nữ. Nhưng các Tu nữ Srilaṅka không bằng lòng với chức danh Tu nữ mà phải được chức danh Tỳ Khưu Ni, như trong dịch phẩm ở trang 1 có ghi: “Lễ thọ giới đầu tiên để phục hồi Hội chúng Ni trong thời gian này được tổ chức ở Sanath, Ấn Độ vào tháng 12 năm 1996. Khi đó mười phụ nữ Srilaṅka được chọn lựa từ các nữ tu Phật theo 10 giới, thịnh hành ở Srilaṅka trong thế kỷ 20.
Như vậy đó, muốn xuất gia được xuất gia, muốn học pháp được học pháp, muốn hành pháp được hành pháp, giờ thì muốn được chức danh Tỳ Khưu Ni, về sau không biết những nữ nhân này muốn được thêm cái gì để cho được bình đẳng nữa đây? Có phải được ngồi vào vị trí “Hội đồng kết tập Phật ngôn” mới là bình đẳng chăng?
Nhưng vì sao. Các tu nữ Srilaṅka này muốn được chức danh Tỳ Khưu Ni?
– Trước tiên, những người ủng hộ phục hồi Hội chúng Ni Theravāda cho rằng: “Tám hay mười giới của nữ tu là giới cấp thấp, là giới của cận sự nữ (upāsikā). Đây là sự hiểu không chính xác về điều này, là một sự nhầm lẫn đáng tiếc.
– Thứ đến là “muốn được các hàng tín thí kính trọng như là các Tỳ Khưu Ni tạo ra. Dịch bản trang 26 có ghi: “Đức Phật cũng chưa bao giờ đặt ra các hình thức xuất gia bậc thấp như Tu nữ Tám giới (mae chee) hay 10 giới (dasasilmātā) hay người có giới (thīlashin), những người mà theo thuật ngữ Phật học vẫn chỉ trong bậc upasikās (nữ tín thí). Chỉ có một vị trí mà Đức Phật đã có ý định tạo ra cho người nữ xuất gia đó là trở thành Tỳ Khưu Ni, người thọ lãnh giới pháp đầy đủ … Hơn nữa, trong các nước theo Phật giáo ở Châu Á, những nữ tu theo cách thọ giới (bậc thấp) thay thế đó thường không được các hàng tín thí kính trọng như các Tỳ Khưu Ni”.
Đúng vậy, thời Đức Phật không có hình thức xuất gia Tu nữ. Nhưng khi Tỳ Khưu Ni vắng bóng, do nguyện vọng chính đáng và nhu cầu được xuất gia trong Giáo Pháp này để được học pháp và hành pháp nên các vị Trưởng Lão tiền bối áp dụng bốn đại cứ pháp (Mahāpasena) thành lập hội chúng Tu nữ.
Sự thành lập hội chúng Tu nữ phù hợp với điều thứ (2) và điều thứ (4).
Điều thứ hai (2): Điều nào Đức Thế Tôn chưa cấm rằng “điều này không được phép”, và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các người, điều ấy là được phép.
Đức Thế Tôn chưa cấm chế rằng: “Cho xuất gia Tu nữ là không được phép”. Sự cho xuất gia Tu nữ là điều phù hợp. Trước đây, là chỉ cho nữ cư sĩ áo trắng thọ tám giới.
Không trái nghịch nới điều không được phép. Nên cho nữ giới xuất gia Tu nữ là điều phù hợp Pháp hợp Luật.
Điều thứ tư (4): Điều mà Đức Thế Tôn chưa cho phép rằng: “Điều này được phép”, và điều ấy phù hợp với điều được phép và trái nghịch với điều không được phép, đối với các ngươi, điều ấy là được phép.
Đức Thế Tôn chưa cho phép: “Cho xuất gia Tu nữ” và sự cho xuất gia Tu nữ phù hợp với điều cho phép trước đây là nữ cư sĩ áo trắng thọ tám giới và điều này trái nghịch với điều không được phép.
Nên cho nữ giới xuất gia thành Tu nữ là điều hợp Pháp hợp Luật, vì vậy các vị Trưởng lão Theravāda không phản đối việc làm này.
Dịch phẩm trang 26 cho rằng: “Tu nữ tám giới (maechee) hay 10 giới (dasasilmātā) hay người có giới (thīlashin), những người này mà theo thuật ngữ Phật học vẫn chỉ trong bậc upāsikās (nữ tín thí)”.
Đây là một sự nhầm lẫn đáng tiếc, là một sự áp đặt vô lý lên phẩm mạo Tu nữ. Phẩm mạo Tu nữ có phải là bậc xuất gia chăng? Hay là một cận sự nữ (upāsikā)? Nếu là cận sự nữ, nữ nhân ấy ở nhà thọ hưởng năm dục là: Sắc, thinh, hương, vị, xúc; vận mặc y phục gia chủ, trang điểm xinh đẹp, thoa xức vật thơm, giữ mái tóc dài xinh đẹp, hưởng dục lạc với nam nhân, sinh con, nuôi con…
Còn Tu nữ cạo bỏ tóc, vận mặc y phục được giáo hội quy định, loại y phục dành riêng cho nữ Tu sĩ. Sống sinh hoạt nơi Tự viện để học pháp và hành pháp.
Như vậy, về hình thức Tu nữ không phải là nữ cư sĩ như dịch phẩm đã áp đặt vô lý cho Tu nữ.
Trong Trung Bộ Kinh II, kinh Ratthapāla (MN82)17M.ii, 54: Tôn giả Ratthapāla suy nghĩ như sau: “Như ta hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đình thật không dễ gì thực hành phạm hạnh hoàn toàn viên mãn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc xà cừ. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp y casa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”
Trong Tương Ưng Kinh V, chương Tương ưng Dự Lưu, kinh Các Người Thợ Mộc18S.v, 348, Đức Thế Tôn dạy Isidatta và Purāṇa:
– Do vậy, này các người thợ mộc, chật hẹp là đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời (rajāpattho). Phóng khoáng giữa trời là đời sống người xuất gia19S.v 349.
Như vậy, các Tu nữ đã lìa bỏ gia đình, đi vào tự viện để sống, đời sống khác xa với các nữ cư sĩ, như vậy tại sao cho rằng Tu nữ cũng giống như nữ cư sĩ, đó là một sự áp đặt vô lý.
Lại nữa, trong Trung Bộ Kinh I, kinh Tiểu Khổ Uẩn (Cūḷadukkhakkhandhasutta) (MN14)20M.i, 91 ghi nhận:
Thích tử Mahānāma đi đến chỗ của Đức Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên thưa rằng:
– Bạch Thế Tôn, con đã hiểu như thế này lời dạy của Thế tôn: “Tham là cấu uế của tâm, sân là cấu uế của tâm, si là cấu uế của tâm”. Tuy vậy, đôi lúc các tham pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các sân pháp chiếm cứ tâm con và an trú, các si pháp chiếm cứ tâm con và an trú.
– Bạch Thế Tôn, con tự suy nghĩ: “Pháp nào tự trong ta không đoạn trừ được, do vậy các tham pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các sân pháp xâm nhập tâm ta và an trú, các si pháp xâm nhập tâm ta và an trú”.
– Này Mahānāma, có một pháp trong ông chưa được đoạn trừ.
(Rồi Đức Thế Tôn dạy: nếu xuất gia sống đời sống không gia đình để đoạn trừ các tham pháp, các sân pháp, các si pháp).
Và do lý do này các Tu nữ chọn đời sống xuất gia, đó là điều cần thiết, xuất gia để được học pháp, hành pháp, có hành pháp mới có cơ hội đoạn tận tham sân si. Đó là mục tiêu của vị xuất gia, là mục tiêu thoát ly cái khổ qua sự chứng đạt Thánh quả, không phải xuất gia để được chức danh Tỳ Khưu Ni.
Còn nếu cho rằng tám giới, mười giới là “giới bậc thấp”, điều này lại là một sự nhầm lẫn khác, một nhầm lẫn tai hại. Ân đức giới được thành tựu. Không phải do số lượng; nếu Ân đức giới cao hay thấp là do căn cứ vào số lượng thì Ân đức giới của Tỳ Khưu Ni cao hơn Ân đức giới của Tỳ Khưu, vì Tỳ Khưu Ni giữ 311 điều học, còn Tỳ Khưu chỉ 227 điều học. Và lập luận này không được chấp nhận.
Với giới người cư sĩ làm thành tựu ân đức giới, đó là một trong bốn chi phần của bậc Thánh Dự Lưu. Đức Thế Tôn dạy những Bà la môn ở Veḷudvāra:
1. Từ bỏ sát sanh, khuyến khích người khác từ bỏ sát sanh.
2. Từ bỏ lấy của không cho, khuyến khích người khác từ bỏ lấy của không cho.
3. Từ bỏ tà hạnh trong các dục, khuyến khích người khác từ bỏ tà hạnh trong các dục.
4. Từ bỏ nói dối, khuyến khích người khác từ bỏ nói dối.
5. Từ bỏ nói chia rẽ, khuyến khích người khác từ bỏ nói chia rẽ.
6. Từ bỏ nói lời thô ác, khuyến khích người khác từ bỏ nói lời thô ác.
7. Từ bỏ những lời vô ích, khuyến khích người khác từ bỏ lời nói vô ích.
Vị ấy thành tựu lòng tin đối với Đức Phật, thành tựu lòng tin đối với Đức Pháp, thành tựu lòng tin đối với chúng Tăng, thành tựu các giới bậc Thánh ái kính, không bị bể vụn, không bị đâm cắt… đưa đến thiền định.
Khi thành tựu bảy Pháp này và bốn lời nguyện xứ này. Vị ấy là bậc Dự Lưu21Tương Ưng Kinh, Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Dự Lưu, kinh Những Người ở Veludvāra S.v, 352.
Sự thành tựu giới không do số lượng giới mà do giới được thọ trì; cư sĩ thọ trì năm giới, giữ giới được trong sạch cũng được gọi là thành tựu giới.
Đức Phật dạy Thích tử Mahānāma:
“Do thành tựu bốn pháp là: Vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Đức Phật, thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Đức Pháp, thành tựu lòng tịnh tín bất động đối với Tăng chúng, thành tựu các giới được bậc Thánh ái kính… đưa đến thiền định. Thành tựu bốn pháp này vị Thánh đệ tử thiên về Níp Bàn, hướng về Níp Bàn, xuôi về Níp Bàn.”
Tám giới mà vị Tu nữ thọ trì không nên cho đó là giới cấp thấp, vì đó cũng là giới mà vị Thánh A La Hán từ bỏ, đoạn tận cho đến trọn đời22Tăng Chi Kinh, Chương Tám Pháp, phẩm Ngày Trai Giới, kinh Các Trai Giới A.iv, 248.
Ngoài ra, khi đề cập đến Giới học của Bát Chánh Đạo là: ba chi phần này dẫn đến chứng đạt Níp Bàn. Sách Thanh Tịnh Đạo có nêu ra tám giới gọi là Giới Khởi Đầu Phạm Hạnh (ājīvaṭṭhamakasīla), đó là: Hành vi của thân (kāya kamma) có ba là: Không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong dục lạc. Hành vi của lời nói có bốn là: không nói dối, không nói chia rẽ, không nói ác và không nói vô ích. Giới thứ tám là “nuôi mạng thanh tịnh”.
Tám giới này chính là ba chi đạo giới phần: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng của Bát Chánh Đạo23Vis. 11.
Trong Tạng Luật 1 bộ Đại Phẩm (Mahāvagga), chương Trọng Yếu (Mahā khandhakaṃ) ghi nhận:
– Này các Tỳ Khưu, Ta cho phép mười điều học đến Sadi và (cho phép) các Sadi học tập trong các điều học ấy.
1. Việc tránh xa sự giết hại mạng sống.
2. Việc tránh xa sự lấy vật không được cho
3. Việc tránh xa điều phi phạm hạnh (sư hành dâm).
4. Việc tránh xa sự nói dối.
5. Việc tránh xa trường hợp kinh thường uống chất say là rượu và chất lên men.
6. Việc tránh xa sự ăn phi thời.
7. Việc tránh xa sự múa hát, đàn kèn và xem múa hát, nghe đàn kèn.
8. Việc tránh xa sự trang điểm, đeo vòng hoa thoa vật thơm, dồi phấn.
9. Việc tránh xa chỗ nằm ngồi cao và rộng lớn.
10. Việc tránh xa sự thọ lãnh vàng, bạc.
Như vậy, tám giới hay mười giới của Tu nữ là giới được Đức Thế Tôn chế định cho Sadi; vào ngày Uposatha (Bố tát), các nam – nữ cư sĩ cùng hành trì tám giới này trọn ngày đêm, còn các Tu nữ gìn giữ đến trọn đời.
Và không nên xem tám giới hay mười giới là giới bậc thấp. Trong thời Đức Phật có những vị Thánh A La Hán Sadi như Ngài Sopāka, Ngài Saṅkicca, Ngài Sumana đã gìn giữ những giới này.
Ghi chú:
- 1DhpA. Câu số 181
- 2A.vi, 340
- 3AA.i, 87
- 4A.ii, 112
- 5xem Tăng Chi Kinh, chương Bốn Pháp, kinh Kesi A.ii, 112
- 6A.i, 61
- 7M.i, 130
- 8D.ii, 72
- 9Vin.iii, 20; Tăng Chi Kinh, Chương Mười Pháp, phẩm Upāli và Ananda A.v, 70
- 10M.ii,1
- 11M.i, 175
- 12S.v, 378
- 13D.ii, 72
- 14S.v, 414
- 15D.iii, 207
- 16A.iii, 35
- 17M.ii, 54
- 18S.v, 348
- 19S.v 349
- 20M.i, 91
- 21Tương Ưng Kinh, Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Dự Lưu, kinh Những Người ở Veludvāra S.v, 352
- 22Tăng Chi Kinh, Chương Tám Pháp, phẩm Ngày Trai Giới, kinh Các Trai Giới A.iv, 248
- 23Vis. 11