WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Lễ thọ giới Tỳ Khưu Ni kép

Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda

Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh

Chương III
Khôi Phục Tỳ Khưu Ni Theo Hệ Phái Nam Truyền

Các vị Trưởng lão ủng hộ việc phục hồi hội chúng Tỳ Khưu Ni, bằng cách cho thọ giới kép, là phối hợp giữa Chư Tăng Theravāda và chư Ni từ các nước Đông Á như Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc; đặc biệt là bộ phái Dharmaguptaka (Pháp Tạng).

Pháp Tạng Bộ

Trước tiên hãy nói về Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka) là một bộ phái tách ra từ Hoá địa bộ hay Di-sa-Tắc bộ (Mahisasaka). Theo truyền thuyết Tích Lan1Mahāvamsa. v; Dīpavaṃsa.v thì Hoá Địa Bộ tách ra từ Theravāda.

Trong dịch phẩm trang 40 cho rằng Phái Dharmaguptaka (Pháp Tạng) rất gần với Theravāda vì cùng xuất phát từ phái Vibhajjavāda (Phân Biệt Chấp Bộ).

Học giả André Bareau đã nêu ra trong “Các Bộ Phái Phật giáo Tiểu Thừa” – Pháp Hiển dịch tr.319; xuất bản năm 2002. “Đây là một bộ phái phân biệt được xác định rõ ràng hay đây là tên gọi chung chỉ một nhóm học phái ít nhiều khác nhau?”

Có lẽ, đến thế kỷ thứ 5, những nhà Trưởng Lão Bộ (Theravāda) của phái Đại Tịnh Xá (Mahāvihāra), tiếp tục tự xem là “người theo Phân Biệt Luận”, danh xưng mà họ đã nhận lấy để biểu lộ vị trí chính thống của họ từ 700 năm trước, trong Đại hội kết tập ở Pātaliputta dưới thời vua Asoka (thế kỷ 3 trước Tây lịch), mặc dù ý nghĩa đặc thù của danh xưng này đã chịu nhiều thay đổi.

Truyền thuyết Chánh Lượng Bộ (Sammatiya), dẫn bởi Bhavya ghi rằng những người theo phân biệt luận tách ra từ Hữu Bộ (sarvastivada) và lập thành phái riêng, học phái này sau đó phân thành Hoá Địa Bộ (Mahisasaka), Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka), Hoàng Y Bộ (Tāmrasatiya) và Ẩm Quang Bộ (kāsyapiyāh). Cần lưu ý sự có mặt của Ẩm Quang Bộ mà Vasubandhu (Thế Thân) Samghabhadra (Tăng Hiền) và tác giả danh sách 1 của Bhavya xác định luận điểm nền tảng như là đặc thù của người theo phân biệt luận, chắc chắn cũng thuộc nhóm các học phái vừa nêu, vì không thể phủ nhận sự gần gũi giáo thuyết giữa phái này với Hoá Địa Bộ2Sđd. tr. 323.

Tóm lại Pháp Tạng Bộ tách ra từ Hoá Địa Bộ ở miền bắc Ấn Độ.

Danh xưng Dharmaguptaka có nghĩa là “người giữ gìn pháp”. Trong khi từ “Dharmagupta” thường gặp, lại có ý nghĩa là “người được pháp giữ gìn” và đây cũng là danh xưng của nhiều nhân vật ít nhiều nổi danh trong lịch sử Phật giáo, nhất là của hai dịch giả. Một là ở đầu thế kỷ 5 Tây lịch, một ở cuối thế kỷ thứ 6 đầu thế kỷ thứ 7, và cũng là tên của một đạo sư Tích Lan mà Pháp Hiển đã gặp ở Tích Lan đầu thế kỷ 5.

Vì thế, cũng có thể danh xưng học phái xuất phát từ tên người lập phái là Dharmagupta khác3Sđd, tr. 267.

Thầy Huyền Trang cho biết, vào thế kỷ thứ 7 còn thấy dấu vết của Pháp Tạng Bộ ở vùng Uddiyāna, trong đó các tu sĩ Đại Thừa giảng dạy Tạng Luật của Pháp Tạng Bộ.

Thầy Nghĩa Tịnh còn thấy Pháp Tạng Bộ có từng nhóm nhỏ trong vùng Uddiyāna, nhất là ở các vùng Tây và Đông Trung Quốc4Sđd. tr. 368.

Vào thời kỳ đầu, giáo điểm của học phái gồm có:

Tạng Luật có 4 bộ:

1. Bhiksupratimoksa: Tỳ Khưu giới bổn.

2. Bhiksunipratimoksa: Tỳ Khưu Ni giới bổn.

3. Skandhaka (Kiền độ chương)

4. Ekottaravinaya (Tăng chi luật nghi)5Sđd. tr. 369.

Dịch phẩm ở trang 40, có cho rằng: Pháp Tạng Bộ là bản sao của Theravāda với một hệ thống kinh điển và A Tỳ Đàm (Abhidhamma), đặc biệt Tạng Luật phần lớn là giống nhau.

Nhưng theo Học giả André Bareau, Tạng Luận của Pháp Tạng Bộ khác biệt lớn giữa ba bộ phái (chỉ cho Hữu Bộ và Trưởng Lão Bộ)6Sđd. tr. 371.

Còn Tạng luật cứ cho rằng giống nhau, nhưng sự thực hành không hoàn toàn giống nhau.

Trong phần chú thích của dịch phẩm, chú thích số 26, có cho biết: “Trong quá trình truyền thừa Phật giáo ở Trung Quốc, dòng truyền thừa của phái Pháp Tạng, lễ thọ giới Tỳ Khưu Ni thường chỉ có một hội chúng Tỳ Khưu truyền giới hơn là lễ thọ giới kép.”

Các vị Thầy về Luật của Pháp Tạng Bộ chấp nhận: “Vẫn thành tựu Tỳ Khưu Ni”. Đó là sự chấp nhận riêng bộ phái đó, không thể dùng chung cho tất cả bộ phái.

Dịch phẩm cũng thừa nhận không đúng với truyền thống Theravāda. Các vị ủng hộ thành lập Hội chúng Tỳ Khưu Ni thuộc Hệ phái Theravāda, cũng chấp nhận điều này, vậy đó có phải là tư tưởng phát triển không?

Và các vị đòi hỏi “Các vị Trưởng lão thông Luật, trì Luật” cũng phải chấp thuận. Tại sao có sự ép buộc vô lý vậy.

Các nước trong khối liên hiệp Anh như Anh, Mã Lai, Ấn Độ… Khi lái xe, tài xế ngồi bên phải bên trong buồng lái nhìn từ cuối xe đến đầu xe, khi xe chạy, tài xế chạy bên trái con đường, các nước thuộc khối liên hiệp Pháp như Việt Nam, Campuchia thì ngược lại. Bảo tài xế Việt Nam chấp nhận cách lái xe như nước Anh, nước Úc thì có gây ra tai nạn giao thông không?

Hay là sống trong nước nào tuỳ thuộc theo nước ấy.

Hoặc là: Ở Việt Nam đơn vị trọng lượng là kg (kilogam), ở Anh hay Mỹ đơn vị trọng lượng là Pound = 0,45 kg. Bảo người Anh hay Mỹ dùng đơn vị là kg, họ có phản đối không? Còn người Việt dùng đơn vị Pound có gây xáo trộn trong cộng đồng người Việt ở nước Việt không? Tương tự như vậy, người Việt qua dùng đơn vị đo chiều dài là km; m; hay cm. Còn người Anh, Mỹ dùng mile = 1,6 km, inch = 2,54 cm; foot = 30cm.

Bảo người Anh, người Mỹ dùng đơn vị là km, m, cm thì họ có phản đối không.

Tốt nhất, sống trong nước nào thì tuỳ thuộc nước ấy.

Cũng vậy, nghi thức của Pháp Tạng Bộ là của Pháp Tạng Bộ, nghi thức của Theravāda là của Theravāda. Không nên đồng hoá như nhau; không thể buộc Theravāda phải thực hành như Pháp Tạng Bộ.

Có lập luận cho rằng: Tạng Luật của Pháp Tạng Bộ rất giống Tạng Luật của Theravāda; và Tỳ Khưu Ni Pháp Tạng Bộ có thể cho nữ giới xuất gia Tỳ Khưu Ni và Tỳ Khưu Ni đó là Tỳ Khưu Ni Theravāda. Lập luận này thật khó thuyết phục, gần như là một lập luận cưỡng chế lý lẽ; không thể cho rằng: “Luật giống nhau có thể đồng hoá như nhau”; Các Tỳ Khưu Ni Pháp Tạng Bộ có chấp nhận mình là Tỳ Khưu Ni Theravāda không? Các vị Tỳ Khưu Pháp Tạng Bộ có tự nhận mình là Tỳ Khưu Theravāda không?

Hoặc là: Những nam cư sĩ của Đức Thế Tôn giữ gìn năm giới; trước và trong thời Đức Thế Tôn cũng có những ẩn sĩ, đạo sĩ giữ năm giới như trong kinh Āmagandha (Sn42)7Sn, 42. Vậy nam cư sĩ có phải là những ẩn sĩ chăng? Các ẩn sĩ có phải là nam cư sĩ chăng?

Đó là nói về Tạng Luật, còn Tạng Luận của Pháp Tạng Bộ, theo học giả André Bareau trong “Các bộ phái Phật giáo Tiểu Thừa” (tr.371). Có sự khác biệt lớn giữa ba bộ phái Hữu Bộ, Theravāda và Pháp Tạng Bộ.

Tạng Luận đã khác biệt cho thấy tư tưởng khác biệt thì làm sao Tỳ Khưu Ni Pháp Tạng Bộ là Tỳ Khưu Ni Theravāda được. Làm sao một Tỳ Khưu Ni Pháp Tạng Bộ cho cô Ni giới tử xuất gia, cô Ni giới tử ấy là Tỳ Khưu Ni Theravāda được, đó lại là một lập luận cưỡng chế lý lẽ.

Nhân tiện, cũng xin đề cập đến việc mười phụ nữ Srilaṅka là mười Tu nữ giữ mười giới thịnh hành ở Srilaṅka. Có lập luận cho rằng: “Các nữ tu giữ mười giới, cũng như là Sadi Ni”. Lập luận này cũng có tính cưỡng chế lý lẽ như trên. Cần nhận định rằng: Sadi Ni giữ mười giới, người giữ mười giới không phải tất cả đều là Sadi Ni. Ở Miến Điện các cô Tu nữ được phép cho nữ giới xuất gia tu nữ. Vậy có phải Sadi Ni được phép cho xuất gia Sadi Ni không?

Trở lại Pháp Tạng Bộ, cho dù Pháp Tạng Bộ được tách ra từ Phân Biệt Chấp Bộ (Vibhajjavāda) hay từ Hoá Địa Bộ (Mahisasaka) cũng được xem là tách ra từ Theravāda, tức là không chấp nhận Hệ phái Theravāda. Vậy vì sao lại xem các Tỳ Khưu Ni Pháp Tạng Bộ như là Tỳ Khưu Ni Theravāda?

Sự kiện này cũng có trong thời Đức Phật và Đức Phật đã từ chối chấp nhận các Tỳ Khưu Ni bước sang ngoại giáo (chữ ngoại giáo được dùng ở đây là chỉ cho những người không cùng chung ý thức hệ. Những người Thiên chúa giáo cũng gọi những người Phật giáo là ngoại đạo) không được phép cho xuất gia Tỳ Khưu Ni trở lại.

Ngay cả Tôn giả Devadatta có ý niệm chia rẽ Tăng chúng, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Sāriputta công bố trong thành Rājagaha (Vương Xá):

“Bản chất của Devadatta trước đây khác, nay bản chất đã khác. Việc gì Devadatta làm bằng thân, bằng lời nói: không nên xem điều ấy là của Đức Phật, đức Pháp hoặc đức Tăng, mà nên xem điều ấy là (của) chính Devadatta”.

Chỉ mới có tư tưởng tách phái, cho dù Tôn giả Devadatta cùng các vị Tỳ Khưu tuỳ tùng có giữ đúng Luật được Đức Thế Tôn chế định. Đức Thế Tôn cũng đã không chấp nhận, thì còn nói gì đã tách phái ra sinh hoạt riêng, lại chấp nhận “giống như Tỳ Khưu Ni Theravāda”. Một lập luận không thuyết phục, có tính cách một chiều.

Theo truyền thống Theravāda, thọ giới lên bậc trên của nữ giới phải thọ ở hai hội chúng Tăng và Hội chúng Tỳ Khưu chỉ được cho tu lên bậc trên với Tỳ Khưu Ni một phía; sau khi Đức Phật phụ chế định không còn thấy hội chúng Tỳ Khưu cho nữ giới không phải là Tỳ Khưu Ni một phía thọ giới tu lên bậc trên. Điển hình là hai vị Trưởng lão Soṇa và Uttara truyền giáo đến xứ Suvaṇṇabhūmi.

Trưởng lão Soṇa thuyết giảng bài kinh Brahmajāla (Phạm Võng) khi dứt kinh Phạm Võng có nhiều người quy y Tam bảo và thọ trì năm giới; Có sáu mươi ngàn người được cải chánh theo chánh pháp. Có 3500 người nam, 1500 người nữ thuộc các gia đình quí tộc xuất gia8Mhv.xii.6, 44; Dpv. Viii, 12.

Như vậy một câu hỏi được đặt ra là:

“Những nữ nhân ấy xuất gia như thế nào?”

Không thấy tập Mahāvaṃsa đề cập đến. Xứ Suvaṇṇabhūmi là vùng cực nam ở Miến Điện hiện nay, là vùng Hạ Miến Điện, gồm luôn bờ biển từ Rangoon đến Singapore. Địa điểm quan trọng nhất trong vùng này là thành phố Suddhammanagara, tức Thaton trên cửa sông Sittanna.

Theo bài viết của Tiến sĩ Friedgard Lottemoser, bà đã sống hai mươi lăm năm ở Miến Điện, bà là người Đức.

Tư liệu “Tu nữ Phật giáo ở Miến Điện” cho biết: “Dòng Tỳ Khưu Ni có thể được du nhập vào vương quốc Pyu (xứ Môn) ở Hạ Miến Điện, là từ Nam Ấn Độ cùng với các đặc điểm khác của Phật giáo Theravāda.

Nếu điều này đúng sự thật, thì các Tỳ Khưu Ni Theravāda từ Ấn Độ sang Pyu (xứ Môn) cho các nữ Pyu xuất gia Tỳ Khưu Ni.

Tư liệu này còn cho biết “Không rõ vì sao Tỳ Khưu Ni biến mất khỏi Miến Điện. Vào năm 1298 triều đại Pagan bị vua nhà Nguyên (Mông Cổ) của Trung Quốc sang xâm chiếm, tiếp theo Miến Điện ở vào tình trạng bất ổn định chính trị, bị chia cắt từ các nhà cai trị khác nhau qua nhiều thế kỷ, trong số đó có vài thể chế chống đối với Phật giáo.

Các nam Tu sĩ Phật giáo cố gắng sống sót qua những thử thách này, trong khi đó Ni đoàn thì không thể tồn tại. Triều đại Pagan (thế kỷ 11- 13 sau Tây lịch) còn tồn tại chùa của các Tỳ Khưu Ni (được khắc trên bia đá, nhưng theo các nghiên cứu thì đó là chùa của Tỳ Khưu Ni theo hệ phái Bắc tông).

Tuy nhiên, điều này cũng không cho biết thời điểm Tỳ Khưu Ni bị hoại diệt ở Miến Điện.

Một điều thú vị là bà Friedgard Lottermoser ủng hộ cho việc phục hồi Tỳ Khưu Ni ở Miến Điện, có khả năng do ảnh hưởng từ Trưởng lão Shin Adicca vào năm 1930 và Trưởng lão Mingun Sayadaw.

Theo tập Phật giáo sử do Ngài Thitañānathero biên soạn bằng Thái ngữ, sư Giác Nguyên dịch sang Việt ngữ, xuất bản năm 1998.

Vào thế kỷ 11 theo Phật lịch, Phật giáo đã phát triển mạnh mẽ ở Miến Điện.

Ban đầu Phật giáo ở đây là Hệ phái Theravāda, nhưng thời gian sau trở thành phái Mật Tông của Bắc Tông. Sự biến cải này do nhóm đệ tử của Trưởng lão Vasubandhu (Thế Thân- có khả năng không phải là Vasubandhu vị luận sư của Bắc tông) một đại sư bên Mật tông sang truyền giáo ở Miến Điện.

Vào thời kỳ đó Miến Điện chọn Kinh đô là Bukama, dân Miến Điện tự xưng quốc hiệu là xứ Maramma.

Còn thủ đô của xứ Môn lúc bấy giờ là thành phố Sathom (Thaton), một vùng đất phát triển của Theravāda.

Phái Mật tông ở Miến Điện lúc này đã bắt đầu chủ trương nhiều điều sai lệch kinh điển truyền thống, chẳng hạn như một nhà sư vẫn được quyền có vợ, có thể uống rượu và bộ phái này tự gọi mình là đạo Ru-ari.

Vào thế kỷ 16 Phật lịch (là vào thế kỷ 11 sau Tây lịch), vua Miến Điện là Anuruddha không vừa ý với Mật giáo trong nước. Vua Anuruddha được Trưởng lão người Môn tên là Arahanta hay Dhammaraṃsī (Pháp Quang) tế độ theo truyền thống Theravāda.

Vua Anuruddha quyết định thanh lọc tôn giáo gửi thư sang vua xứ Môn là Manūha, xin thỉnh Tam Tạng và chư Tăng Hệ phái Theravāda về Miến Điện để chấn hưng Phật giáo, nhưng vua Manūha không chấp nhận. Từ việc này, hai nước gây hấn nhau và chiến tranh xảy ra. Cuối cùng vua Anuruddha chiến thắng xứ Môn, chiếm đóng Sathom, thỉnh Tam Tạng cùng Chư Tăng và ba vạn nghệ nhân về nước. Với lực lượng đó, Phật giáo Theravāda ở Bukama (Pagan) được phục hồi.

Đặc biệt vào giai đoạn này nữ giới chỉ được xuất gia là Tu nữ (vào thế kỷ 16 Phật lịch). Đó cũng vào triều đại vua Vijayabāhu I của Tích Lan.

Cả xứ Tích Lan lẫn xứ Miến Điện theo hệ Theravāda không cho xuất gia Tỳ Khưu Ni bằng cách hội chúng Tỳ Khưu cho nữ giới xuất gia Tỳ Khưu Ni một phía như Pháp Tạng Bộ ở Trung Quốc.

Như vậy, Pháp Tạng Bộ được tách ra từ Hoá Địa Bộ hay từ Phân Biệt Chấp Bộ cũng cách xa hệ Theravāda và cách hành trì luật cũng khác biệt hệ Theravāda.

Lại nữa, theo tập Parivāda (Tập Yếu) quyển II, Pañcavaggo, Kammavaggo (phẩm hành sự) ghi nhận: “có bốn loại hành sự (cattāri kammāni):

– Hành sự với lời công bố (apalokanakammaṃ).

– Hành sự với lời đề nghị (ñattikammaṃ)

– Hành sự có lời đề nghị lần thứ nhì (ñattidutiyakammaṃ).

– Hành sự có lời đề nghị lần thứ tư (ñatticatutthakammaṃ).

Sự xuất gia tu lên bậc trên là “hành sự có lời đề nghị lần thứ tư”. Hành sự này bị hỏng (Vipajjanti) do năm biểu hiện (pañcahākārehi):

– Hư hỏng về sự việc (Vatthuto)

– Hư hỏng về lời đề nghị (ñattito)

– Hư hỏng về lời tuyên bố (anusāvanato)

– Hư hỏng vì ranh giới (Sīmato)

– Hư hỏng vì tập thể (Darisato)

Trong dịch phẩm, ở trang 12, có đề cập đến phần kammavagga (phẩm hành sự này) cũng có nêu ra năm điều kiện không hợp lệ (vipajjanti) nhưng chỉ đề cập đến giới Tu nữ chưa thực hành đầy đủ giai đoạn Sikkhāmāna (Thức xoa ma na) thì không hợp lệ mà thôi. Còn những điều không hợp lệ khác thì không đề cập đến.

Một Tăng sự (Saṅghakamma) cho nữ giới tử thọ giới bậc trên (giới Tỳ Khưu Ni) phải không có một trong năm điều không bị hư hỏng (na vipajjanti).

1. Thế nào là hư hỏng về sự việc (vatthuto). Là nữ giới tử là cô Ni tập sự (Sikkhāmāna) thực hành sáu pháp chưa đủ hai năm.

2. Thế nào là hành sự bị hư hỏng vì lời đề nghị (kathaṃ ñattiyo kammāni vipajjanti)? Các hành sự bị hư hỏng vì lời đề nghị (thông báo ñatti) với năm biểu hiện: Không đề cập đến sự việc, Không đề cập đến hội chúng, Không đề cập đến nhân sự, Không đề cập đến lời đề nghị, Xác định lời đề nghị sau.

3. Thế nào là hành sự bị hư hỏng vì lời tuyên bố (kathaṃ anusāvanato kammāni vipajjanti)?

Các hành sự bị hư hỏng vì lời tuyên bố với năm biểu hiện: Không đề cập đến sự việc, không đề cập đến hội chúng, không đề cập đến nhân sự, bỏ bớt phần tuyên bố, tuyên bố không đúng thời.

4. Thế nào là các hành sự bị hư hỏng vì ranh giới (Kathaṃ sīnato kammāni vipajjanti)? Các hành sự bị hư hỏng vì ranh giới với mười một biểu hiện: Thoả thuận ranh giới quá nhỏ, Thoả thuận ranh giới quá lớn, Thoả thuận ranh giới có điểm mốc (nimitta: dấu hiệu) bị gián đoạn, Thoả thuận ranh giới có điểm mốc là bóng râm, Thoả thuận ranh giới không có điểm mốc, Thoả thuận ranh giới khi đứng ở ngoài ranh giới, Thoả thuận ranh giới ở sông, Thoả thuận ranh giới ở biển, Thoả thuận ranh giới ở hồ nước, Gối ranh giới (mới) lên ranh giới (cũ), Trùm ranh giới (mới) lên ranh giới (cũ).

5. Thế nào là các hành sự bị hư hỏng vì tập thể? Có mười hai biểu hiện.

Như vậy cho thấy một Tăng sự (Saṅgha kamma) phải hội đủ thích hợp với năm điều như thế.

Trong bản dịch phẩm ở trang mở đầu (trang 5) cho biết.

“Lễ thọ giới đầu tiên để phục hồi Hội chúng Ni được tổ chức vào tháng 12 năm 1996 tại Sanath, Ấn Độ; khi đó mười phụ nữ Srilaṅka được chọn lựa từ các nữ tu Phật theo 10 giới thịnh hành ở Srilaṅka, thọ giới Cụ túc (upasampadā), do các vị Tỳ Khưu của hội Mahābodhi (Đại Giác) với sự trợ giúp của các Tỳ Khưu Ni Hàn Quốc.”

Hãy để yên các giới tử ni có thực hành sáu pháp Sikkhāmāna tròn đủ hai năm chưa? Điều này sẽ được bàn đến trong phần Thức Xoa ma na (Sikkhāmāna).

Trong Tăng sự cho thọ giới Upasampadā, việc hỏi hai mươi bốn chướng ngại pháp và Tuyên ngôn (kammavāca) đều được thực hiện theo ngôn ngữ Pāli, không nên xem thường điều này. Vì đó là lời dạy của Đức Phật.

Đức Thế Tôn dạy các hàng đệ tử bằng ngôn ngữ Magadha, về sau ngôn ngữ này được gọi là Pāli.

Như đã trình bày ở trước, phẩm vị Tỳ Khưu hay Tỳ Khưu Ni được thành tựu bằng Pháp- Giới, khi không có sự hỏng; dứt Tuyên ngôn Tăng sự, giới tử ấy thành tựu phẩm vị Tỳ Khưu hay Tỳ Khưu Ni, có đầy đủ giới (upasampadā).

Lời dạy của Đức Thế Tôn rất có uy lực, vì Ngài là Đấng Pháp Vương. Như vị vua ra lệnh, điều ấy được hình thành, cũng vậy lời của Đức Thế Tôn có năng lực phi thường, điển hình như:

– Gia chủ Yasa ở trong phẩm mạo cư sĩ, xin được xuất gia trong Giáo Pháp này, Đức Thế Tôn dạy: Ehi bhikkhu: Hãy đến đây này Tỳ Khưu; lập tức râu tóc rụng hết, trên mình có đầy đủ tám món vật dụng cần thiết của bậc Sa môn.

– Tương tự như vậy với 30 vị tử hoàng Bhaddiya.

– Bà Di mẫu Mahāpajāpati Gotamī thọ nhận tám trọng pháp, bà thành tựu Tỳ Khưu Ni.

Trong Udāna (Phật tự thuyết), kinh Suppavāsā9Ud. 15:

Nàng Suppavāsā, con gái vua xứ Koliya nàng mang thai bảy năm, bị đau đẻ đến ngày thứ bảy, nàng cảm thọ khổ đau, nhức nhối, khốc liệt, thống khổ.

Chồng nàng Suppavāsā đến viếng Đức Thế Tôn, nhân danh nàng Suppavāsā đảnh lễ Đức Thế Tôn, Ngài chúc phúc.

“Mong rằng Suppavāsā con gái vua Koliya được an lạc, không bệnh, sinh đứa con không có bệnh”.

Dứt lời, nàng Suppavāsā sinh con được khoẻ mạnh.

– Đức Thế Tôn ban cho Sa di Sopāka địa vị Thera, lập tức vị ấy tuy còn bảy tuổi nhưng thành tựu Tỳ Khưu giới.

Tương tự như thế với Sa di Sumana.

– Đức Thế Tôn thuyết giảng kinh Chuyển Pháp Luân làm rúng động quả địa cầu.

– Đức Thế Tôn dạy Ngài Ānanda bài kinh Ratanasutta (Kinh Châu báu); Ngài Ānanda cùng Tăng chúng tụng lên khi đi ba vòng thành Vesāli và rảy nước, ba tai nạn: đói khát, bịnh tật và phi nhân trong thành Vesāli chấm dứt…

Do vậy, phẩm vị Tỳ Khưu hay Tỳ Khưu Ni theo hệ Theravāda được thành tựu từ Tuyên ngôn bằng tiếng Pāli.

Các Tỳ Khưu Ni Hàn Quốc có thể không hỏi chướng ngại pháp, không tụng Tuyên ngôn Tăng sự bằng tiếng Pāli xem như hành sự vì lời đề nghị và hành sự vì lời tuyên bố bị hỏng. Do vậy, điều này khiến các vị Trưởng lão thông luật, giữ gìn Luật khó chấp nhận “thành tựu giới Tỳ Khưu Ni theo hệ thống Theravāda”. Vì rằng ngôn ngữ Pāli được Hệ phái Theravāda dùng trong các Tăng sự (Saṅghakamma) như lễ Uposatha, lễ Pavāranā, lễ Kiết giới Sīmā, cho xuất gia… Còn Hệ phái Mahāyana dùng ngôn ngữ Saṅskrit hoặc ngôn ngữ thường dùng.

Do vậy các Tỳ Khưu Ni Hàn Quốc hay các Tỳ Khưu Ni Đài Loan có thể không dùng ngôn ngữ Pāli trong Tăng sự. Ngay ở Việt Nam, các vị Luật sư Bắc Truyền hay các Tỳ Khưu Ni Bắc truyền không sử dụng ngôn ngữ Pāli trong các Tăng sự.

Lại nữa, các Tăng sự phải được thực hiện trong ranh giới (Sīma).

Trong dịch phẩm cho biết: Lễ thọ giới phục hồi Hội chúng Ni ở Sanath, nhưng không cho biết nghi thức này có hay không có thực hiện trong Sīma (ranh giới); nếu ở ngoài ranh giới thì Tăng sự bị hỏng.

Lại nữa, Tăng sự bị hư hỏng do ranh giới (Sīmā) bị hư hỏng vì có điểm mốc (nimitta) bị gián đoạn, là chỉ cho điểm mốc bị hư hoại hay bị thay đổi.

Sanath hiện nay cách Benares sáu dặm, là Isipatana (Tiên nhân rơi xuống) khi xưa, Isipatana là một trong bốn điểm hành hương của Phật tử, đó là Vườn Lumbini (nơi Bồ tát Siddhattha sinh ra); Bodhgayā (Bồ đề đạo tràng – Nơi Bồ tát chứng đạt Vô Thượng Chánh Giác); Isipatana Migadāya (vườn Lộc Uyển, nơi Đức Phật chuyển Pháp Luân) và Kusināra (nơi Đức Thế Tôn viên tịch)10Trường Bộ Kinh, kinh Đại Viên Tịch D.ii, 141.

Isipatana cũng là một trong bốn điểm “không sai lệch (avijahiṭṭhānāni)” trong kiếp trái đất này; ba điểm kia là: Bodhi Pallaṅka – nơi thành đạo; cổng thành Saṅkassa – nơi Đức Thế Tôn đặt chân xuống đầu tiên khi Ngài từ cõi Tāvatiṃsa (cõi Trời Ba mươi ba) trở về nhân loại và địa điểm đặt chiếc giường trong Gandhakuṭi (Hương thất) trong Đại tự Jetavana.

Ba vị Phật quá khứ là: Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Konāgamana, Đức Phật Kassapa cũng chứng vô thượng chánh giác ở Bodhi pallaṅka, chuyển Pháp luân ở Isipatana, từ cõi Tāvatiṃsa ngự về cõi người ở cổng thành Saṅkassa và có giường ngủ được đặt ở vị trí nơi Gandhakūṭi giống như Đức Thế Tôn Gotama.

Trong tương lai, Đức Phật Metteyya (Di Lặc) cũng có bốn địa điểm như thế ấy, ở vị trí được nêu trên11(BuA. 247) (DA. ii, 424).

Theo Mahāvaṃsa (Đại sử), có một số lượng Tăng chúng sống rất đông ở Isipatana vào thế kỷ thứ 2 trước Tây lịch, bằng chứng là có đến mười hai ngàn vị Tỳ Khưu đến dự lễ lạc thành Mahā Thūpa nơi kinh thành Anurādhapura ở Tích Lan dưới sự hướng dẫn của Trưởng Lão Dhammasena12Mhv. Xxiv, 31.

Ngài Huyền Trang có cho biết:

“Có gặp 1500 vị Tỳ Khưu Tiểu thừa (Hīnayana) ở Isipatana, ông còn cho biết có một tự viện cao trên 60m, rất kiên cố trong vòng rào của Saṅghārāma (Tự viện Tăng chúng). Giữa chánh điện là Kim thân Phật to như người thật trong tư thế chuyển Pháp Luân13Beal: Records of the Western word, ii, 45. Ở phía Tây Nam còn vết tích của tháp đá do vua Asoka xây.

The Divy (389- 394) nói rằng: Vua Asoka tâm sự với Upagupta ý muốn đến viếng thăm những Phật tích và xây tháp ở đó. Do đó vua Asoka đến Lumbini, Bodhimūla (cội Bồ Đề) Isipatana Migadāya vākusinagara; trước mặt là trụ đá ghi dấu chỗ Đức Thế Tôn thuyết pháp lần đầu tiên.

Trải qua gần hai ngàn năm, những Phật tích bị chôn vùi theo thời gian. Mãi đến thế kỷ thứ 18 sau Tây lịch, nhà khảo cổ người Anh là Alexander Cunninggham khai quật được những Phật Ấn; đồng thời cũng minh chứng: “Đức phật Gotama là Đức Phật lịch sử, không phải là Đức Phật huyền thoại”.

Như vậy, trong quá trình đào xới để tìm những di tích, cổ vật… những cột mốc (nimitta) ranh giới bị hư hoại hay bị chuyển dịch, do đó ranh giới bị đứt đoạn là một trong những nguyên nhân khiến Tăng sự bị hư hỏng (vipajjanti).

Không hiểu các Ngài Trưởng lão ở Mahābodhi có kết ranh giới (sīmā) lại hay không? Vì nếu thực hành Tăng sự ngoài vòng Sīmā, theo Hệ phái Theravāda là không thành tựu.

Hoặc là các Ngài Trưởng lão kết Sīmā tạm để thực hành Tăng sự. Nếu là vậy, thì khi Tăng sự đang tiến hành, trong vòng đai một do tuần (yojana # 16km) không có vị Tỳ Khưu nào vãng lai. Nhưng Saranath là địa điểm hành hương, có thể có vị Tỳ Khưu khách vô tình đến viếng; thế là Tăng sự bị hỏng.

Đó là sự nghi hoặc về Tăng sự hư hỏng do ranh giới (sīmā), điều này khó cho các vị Trưởng lão thông luật, giữ luật chấp nhận Tỳ Khưu Ni được thành tựu.

Bản dịch phẩm trang 39- 40, cho biết: “Vào tháng hai năm 1998 tại Bồ đề Đạo tràng, một cuộc thọ giới Tỳ Khưu Ni theo thể thức kép với các Tỳ Khưu từ nhiều truyền thống khác nhau: Đại Thừa của Trung Quốc, Nguyên Thuỷ và Tây Tạng cùng với các Tỳ Khưu Ni Đài Loan và Tây Phương để tạo ra lễ thọ giới kép theo truyền thống Trung Quốc”.

Chỉ khung cảnh và cách thức như vậy thì làm sao được gọi những cô Ni ấy là Tỳ Khưu Ni Theravāda được. Những ai hiểu Luật cũng thấy rõ những cô Ni ấy thuộc hệ thống Đại Thừa.

Nhưng dịch giả lại trân tráo (tôi phải dùng đến chữ này, dù tôi không thích khi phải sử dụng đến nó) nói rằng: “Đây là một sự hiểu lầm”; sự việc rành rành là Đại Thừa như thế mà còn bảo là “sự hiểu lầm”, có phải các nhà sư Trung Quốc, các Tỳ Khưu Ni Trung Quốc cho các cô Ni thọ giới Tỳ Khưu Ni, các Tỳ Khưu Ni Đại Thừa ấy trở thành Tỳ Khưu Ni Theravāda cả, có phải thế không?

Như vậy chẳng phải là Sự trân tráo là gì?

Cô dịch giả đã trườn uốn, cho rằng các Tăng Ni Đại Thừa theo truyền thống phát triển nhưng họ vẫn tuân thủ theo một bộ luật có nguồn gốc rất sớm, một chi nhánh của phái truyền thừa Dharmaguptaka (Pháp Tạng Bộ). Về Pháp Tạng Bộ đã trình bày ở trước: Cho dù cùng bộ luật giống nhau, nhưng cách thức truyền thừa đã khác nhau, thì không thể cho rằng hậu duệ là Tỳ Khưu Ni Pháp Tạng giống với Tỳ Khưu Ni Theravāda. Đồng thời chưa hẳn là Luật của Tỳ Khưu Ni Theravāda. Tỳ Khưu Ni Theravāda có 311 giới, trong khi Tỳ Khưu Ni Bắc truyền có đến 348 giới; như vậy cho thấy có sự thực hành khác nhau giữa hai bộ phái Tỳ Khưu Ni này.

Lại nữa, tuy hình thức giống nhau nhưng chưa hẳn thực hành giống nhau.

Như trong Trung Bộ Kinh I, Kinh Tiểu Khổ Uẩn (Cūḷadukkhakkhandhasuttaṃ) (Trung Bộ Kinh, MN14)14M.i, 91 hay Kinh Devadaha ( Trung Bộ Kinh, MN101)15M.ii, 214 ghi nhận:

Tôn chủ Nigantha Nātaputta tự xưng là có tri kiến toàn diện như sau: “Dầu ta có đi, có đứng, có ngủ và có thức, tri kiến được tồn tại nơi ta liên tục ở nơi ta”.

Đức Thế Tôn là bậc Toàn tri toàn kiến, nhưng Đức Thế Tôn không tuyên bố như vậy, sự tuyên bố như Nigantha Nātaputta đó là một tà kiến thường hằng.

Nigantha Nātaputta cũng cho rằng: “Có ác nghiệp đã tạo trong quá khứ, và diệt ác nghiệp trong quá khứ bằng cách thực hành khổ hạnh cực kỳ khốc liệt”.

Đức Thế Tôn cũng thấy rõ, biết rõ chúng sanh có nghiệp quá khứ là duyên dẫn đến an lạc hay khổ đau, Đức Thế Tôn chủ trương diệt nghiệp bằng con đường Trung đạo.

Như trong Tăng Chi Kinh, Chương Bốn Pháp, Kinh Thánh Đạo (Ariyamaggasuttaṃ) (AN235)16A.ii, 235, Đức Thế Tôn dạy:

Này các Tỳ Khưu, có bốn nghiệp này được ta chứng ngộ với thắng trí và tuyên thuyết.

Thế nào là bốn?

Này các Tỳ Khưu, có nghiệp đen quả đen.
Atthi, bhikkhave, kammaṃ kaṇhaṃ kaṇhavipākaṃ

Có nghiệp trắng cho quả trắng
atthi, bhikkhave, kammaṃ sukkaṃ sukkavipākaṃ

Này các Tỳ Khưu, có nghiệp đen trắng cho quả đen trắng.
atthi, bhikkhave, kammaṃ kaṇhasukkaṃ kaṇhasukkavipākaṃ

Này các Tỳ Khưu, có nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng, nghiệp đưa đến nghiệp đoạn diệt.
atthi, bhikkhave kammaṃ akaṇhāsukkaṃ akaṇhāsukkavipākaṃ kammakkhayāya saṃvattati

Nghiệp không đen trắng, quả không đen trắng thì thực hành Bát chánh đạo, là diệt nghiệp. Như vậy, cùng chủ trương về nghiệp nhưng sự thực hành diệt nghiệp lại khác nhau.

Một minh hoạ khác cho thấy, tuy cùng chủ trương giống nhau nhưng thực hành khác nhau. Như trong Trung Bộ Kinh I, Kinh Tiểu Sư Tử Hống (Cūḷasīhanādasuttaṃ) (MN11)17M.i, 63:

Đức Thế Tôn dạy các Tỳ Khưu hãy chơn chánh rống tiếng rống con sư tử: “chỉ ở đây (idh’eva) có bốn bậc Sa môn (idheva: “chỉ ở đây”; MA. ii, 4, giải thích là trong lời dạy này; bốn bậc Sa môn18Trường Bộ Kinh, kinh Đại Viên Tịch D.ii, 151 chỉ cho bậc Dự Lưu, bậc Nhất Lai, bậc Bất Lai và bậc A La Hán.

Sự tình này có thể xảy ra: Các du sĩ ngoại đạo có thể nói: “Chư Tôn giả có tin tưởng gì, có sức lực gì mà chư Tôn giả tuyên bố: chỉ ở đây là có Sa môn bốn bậc.

Này các Tỳ Khưu cần phải trả lời cho chúng như sau: chúng tôi tự chánh kiến bốn pháp; được Thế Tôn tuyên bố cho chúng tôi biết.

Chư hiền, chúng tôi có lòng tin Bậc Đạo sư, có lòng tin pháp, có sự thành tựu viên mãn các giới luật và những pháp hữu (sahadhammikā; MA. ii, 8 chỉ cho Ariyasāvakā (Thánh đệ tử) bao gồm Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, các cô Ni tập sự, Sa di, Sa di Ni, cận sự nam, cận sự nữ là bậc Thánh).

Các du sĩ ngoại đạo có thể nói: “Chư hiền, chúng tôi cũng có lòng tin Bậc Đạo Sư (Sớ giải Kinh Trung Bộ giải thích là “chỉ cho Puraṇakassapa và sáu tôn chủ ngoại giáo)19MA.ii, 9, vị ấy là Bậc Đạo Sư của chúng tôi. Chúng tôi cũng có lòng tin pháp, pháp ấy là pháp của chúng tôi; chúng tôi thành tựu viên mãn các giới Luật (Sớ giải Kinh Trung Bộ giải thích là : “chỉ cho các giới luật như theo hạnh con chó, theo hạnh con bò)20MA.ii, 9.

Tiếp theo Đức Thế Tôn chỉ ra sự thực hành khác biệt giữa các vị Tỳ Khưu và các du sĩ ngoại đạo. Như vậy, cho thấy tuy cùng danh tự nhưng ý nghĩa, thực hành khác nhau.

Còn về Luật, tuy có cùng chung Luật nhưng có sở hành khác nhau là: Trong tập Mahāvaṃsa (Đại Sử) chương XXXIII, ghi nhận.

Sau khi Mahāvihāra (Đại tự viện) ở Tích Lan thành lập được 217 năm, mười tháng, mười ngày. Đến thời vua Vaṭṭagāminī Abhaya đã kiến tạo Tự viện Abhayagiri (Vô Úy Sơn) được dâng đến Trưởng lão MahāTissa ở Kuppotaka và hai vị Tỳ Khưu Ni trông coi.

Theo Mahāvaṃsa21Mhv. Xxxiii, 95, có vị Tỳ Khưu là MahāTissa sống trong Mahāvihāra bị tẩn xuất vì giao du thân mật với các gia đình cư sĩ. Môn đệ của MahāTissa là Bahalamassutissa phẫn nộ với Abhayagiri, tách ra lập Hệ phái riêng.

Như vậy, tuy cùng giới luật nhưng cũng có sự thực hành khác biệt.

Theo dịch phẩm, trang 40- 41:

“Các Tỳ Khưu Ni từ Srilaṅka muốn trở thành những người thừa kế chính thống của truyền thống giới luật của Theravāda và có thể được chấp nhận bởi chư Tăng ở Srilaṅka. Những vị Tăng ủng hộ lễ thọ giới của họ cũng hiểu rằng nếu các vị Ni đó trở lại Srilaṅka chỉ với giới pháp thọ nhận từ các vị thầy truyền giới Hàn Quốc hay Đài Loan, những người thực hành pháp Nguyên thuỷ ở Srilaṅka sẽ không chấp nhận họ vì nghĩ rằng lễ thọ giới của họ là truyền thống Đại Thừa.

Để ngăn ngừa điều này, không lâu sau lễ thọ giới Bồ Đề Đạo Tràng, các vi Ni đó đã đến Sarnath (Vườn Lộc Uyển, nơi đức Phật lần đầu tiên thuyết pháp đến năm vị tu khổ hạnh), nơi họ được chư Tăng Srilaṅka truyền giới (Upasampadā) lại theo truyền thống Nguyên thuỷ bằng ngôn ngữ Pāli.

Lễ thọ giới này không phủ nhận lễ thọ giới kép trước đó bởi các Tăng Ni người Tàu, mà nó mở ra một hướng đi mới.”

Đọc đoạn văn trên của dịch phẩm tôi không hiểu dịch giả có cảm nghĩ như thế nào khi bênh vực, bảo vệ cho những người lừa mị, để được Giáo hội Tăng đoàn Srilaṅka chấp nhận cho họ là Tỳ Khưu Ni Theravāda. Cách lập luận tráo trở này chỉ lừa mị người không biết thôi.

Ở Việt Nam, có những người lười nhác hoặc hành nghề nào đó; khi có lễ hội, họ mua y bát của bậc xuất gia mang vào, cạo đầu giả làm người tu để được xin tiền hợp pháp. Họ chỉ gạt được những ai không biết, người có hiểu biết gọi họ là Tăng lô (Tăng giả mạo).

Những chiếc xe như Rollroy, Toyota, Ford, Mercides đều được gọi là xe hơi, nhưng mỗi dòng xe có cách sản xuất khác nhau.

Hoặc là: Euro, Usd, Úc kim… đều được gọi là tiền, nhưng Bảng Anh là khác, đồng Franc là khác, tiền Thái là khác… không thể cho là giống nhau.

Cũng vậy, tuy cùng gọi là Tăng Tỳ Khưu trong hệ thống Phật giáo, nhưng vẫn phân biệt rõ: Tăng thuộc dòng Thiền tông, Tăng thuộc dòng Luật tông, Tăng thuộc dòng Thiên Thai, Tăng thuộc dòng Pháp Hoa Tông… không có sự nhầm lẫn.

Tương tự, nữ giới khi xuất gia trong Phật giáo tuỳ theo nghi thức truyền thừa đều được gọi là Tỳ Khưu Ni, nhưng rõ ràng Tỳ Khưu Ni Bắc Tông khác, Tỳ Khưu Ni Khất sĩ khác. Đó là do nương theo cách truyền thừa.

Tỳ Khưu Ni Theravāda được truyền thừa từ lưỡng phái Tăng theo hệ Theravāda.

Việc các giới tử Ni được các vị sư và Tỳ Khưu Ni Trung Quốc hay Đài Loan hoặc Hàn Quốc cũng được gọi là Tỳ Khưu Ni, nhưng là Tỳ Khưu Ni Đại thừa, không phải Tỳ Khưu Ni Theravāda. Điều này rõ ràng là như vậy.

Khi đề cập đến Theravāda cần lưu ý: có hai Theravāda là: Theravāda – Mahāvihāra (Trưởng lão bộ – Đại Tịnh xá) và Trưởng lão bộ Ấn Độ (Saṅcrite viết là sthaviravāda). Không nên đồng hoá Trưởng lão bộ Ấn Độ và Trưởng lão bộ Tích Lan, dù rằng Trưởng lão bộ Tích Lan vẫn giữ được tính cổ xưa của giáo thuyết.

Chỉ có truyền thuyết Chính Lượng Bộ (Sammatiya) dẫn bởi Bhavya, còn để lại cho chúng ta vài tin tức về (cái gọi là) giáo thuyết của Trưởng Lão Bộ Nguyên thuỷ hay Tiền Trưởng Lão Bộ ở Ấn Độ.

Trưởng Lão Bộ ở Ấn Độ hiện nay không còn.

Trưởng Lão Bộ Tích Lan vẫn còn sống động ở Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia.

Theo học giả André Bareau trong tập “Các bộ phái Phật giáo Tiểu thừa” do Pháp Hiển dịch, xuất bản năm 2002, trang 229:

Chính Lượng Bộ (Sammatiya), các tư liệu xưa đều đồng ý Chính Lượng Bộ là một trong bốn bộ phái sinh ra từ Độc Tử Bộ.

Học giả André Bareau cho biết: “Truyền thuyết Chính Lượng Bộ được tường trình bởi Bhavya, lần phân phái đầu tiên xảy ra vào năm 137 sau khi Đức Phật viên tịch, lần thứ hai vào năm 200 và lần thứ ba vào năm 400 sau khi Đức phật viên tịch.

Trong tập Luận Kāthāvatthu có đề cập đến Chính Lượng Bộ, điều này cho thấy Chính Lượng Bộ được tách ra từ Độc Tử Bộ (Vajiputtaka).

Theo truyền thuyết Chính Lượng Bộ; Phân Biệt Chấp Bộ (Vibhajyavāda) tách ra từ Hữu Bộ (Sarvāstivāda), Hữu Bộ tách ra từ Trưởng Lão Bộ Ấn Độ (Sthaviravāda); Pháp Tạng Bộ (Dharmaguptaka) tách ra từ Phân Biệt Chấp Bộ.

Theo truyền thuyết Tích Lan thì Pháp Tạng Bộ tách ra từ Hoá Địa Bộ (Mahisāsaka); Hoá Địa Bộ tách ra từ Trưởng Lão Bộ Ấn Độ.

Như vậy, cho dù là truyền thuyết nào thì Pháp Tạng Bộ cũng từ Trưởng Lão Bộ Ấn Độ tách ra làm hai lần.

Ở giai đoạn đầu sự ghi chép kinh điển chưa hình thành, không thấy tư liệu nào cho biết chính xác sự ghi chép kinh điển vào thời kỳ đầu.

Theo tập “2500 Phật giáo” do Gs.P.v. Bapat chủ biên, dịch giả Nguyễn Đức Tư- Hữu song, xuất bản năm 2002, trang 29, có cho biết:

Cuộc kết tập Phật ngôn lần thứ tư ở Ấn Độ, được vua Kanishka II (Ca- ni- sắc- ca) bảo trợ.

Vào khoảng 100 năm sau Tây lịch, các nhà nghiên cứu Phật sử vẫn chưa có sự nhất trí về địa điểm kết tập là Jalandhara hoặc Kashmir (Kế Tân).

Trong cuộc kết tập Phật ngôn lần thứ tư này quy tụ mười tám Hệ phái trong đó Trưởng Lão Bộ Ấn Độ không tham dự.

Theo Ngài Huyền Trang (Xuan Chwang) vua Kanishka II được Ngài Hiếp Tôn Giả (Parsva) thuyết phục và theo lời khuyên của Ngài Hiếp Tôn Giả, Đại hội kết tập Phật ngôn lần thứ tư được tổ chức tại Kashmir (Kế Tân) do Ngài Vasumitra (Thế Hữu) của Hữu bộ (Sarvastivada) là chủ toạ, Ngài Mã Minh (Asvaghosa) được mời từ Saketa đến là phó chủ toạ, soạn Luận thư.

Ngài Huyền Trang cho biết: Đại hội biên tập được 100 ngàn bài giải thích kinh Tạng, 100 ngàn bài giải thích Luật tạng và 100 ngàn bài luận A- tỳ- đạt- ma- Tì- bà- sa (AbhidharmavibhasaSastras) được viết bằng chữ saṅskrits lên tấm đồng, rồi được đặt vào cái hộp bằng đá, cất giữ an toàn trong một bảo tháp22Sđd. trang 186.

Có khả năng kinh điển của Pháp Tạng Bộ theo Kinh- Luật- Luận trong lần kết tập Phật ngôn này.

Còn Trưởng Lão Bộ Tích Lan, theo tập Mahāvaṃsa (Đại sử) chương XXXIII, Tam Tạng và Sớ giải Tam Tạng được ghi chép vào thời vua Vaṭṭagāminī- Abhaya, cuối thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch (29- 17 trước Tây lịch) (vua Vaṭṭagāminī- Abhaya trị vì được mười hai năm, năm tháng). Vua Vaṭṭagāmanī- Abhaya cho chép lại Tam Tạng và Sớ giải, dâng đến mỗi vị Tỳ Khưu là một bộ.

Nhưng bản Mahāvaṃsa không cho biết là ghi chép bằng ngôn ngữ nào? Có khả năng đó là ngôn ngữ Siṁhala (chữ Tích Lan cổ), sau này Ngài BuddhaGhosa (thế kỷ thứ năm sau Tây lịch) đã chuyển tác sang ngôn ngữ Pāli.

Điều này cho thấy kinh điển của Pháp Tạng Bộ được truyền thừa ở vùng Bắc Ấn hay TâyBắc Ấn; còn Theravāda Tích Lan ở vùng Nam Ấn; có sự khác biệt nhau về ngôn ngữ truyền thừa, có khả năng dẫn đến sự khác biệt nhau về một số điều. Do vậy, ngay lần đầu, sự phục hồi Tỳ Khưu Ni ở Sanath, Ấn Độ vào tháng 12/1996; các giới tử Ni đã không thành tựu Tỳ Khưu Ni Theravāda.

Trong dịch phẩm, trang 41 có ghi: “Chư Tăng Srilaṅka truyền giới (Upasampadā) lại theo truyền thống Nguyên thuỷ bằng ngôn ngữ Pāli. Lễ thọ giới này không phủ nhận lễ thọ giới kép trước đó bởi các Tăng- Ni người Trung Quốc, mà nó mở ra hướng đi mới”.

Quả thật khó hiểu: “Đã là một Tỳ Khưu Ni rồi, sau lại xuất gia lại?” (Và không phủ nhận lễ xuất gia kép trước đó bởi các Tăng Ni người Tàu).

Như vậy có điều gì bất ổn với sự xuất gia kép trước đó? Và dường như có điều gì không minh bạch trong sự kiện này? Điều nên ghi nhận rằng “Tỳ Khưu Ni không được hoàn tục (xả giới) rồi xuất gia thọ giới Tỳ Khưu Ni trở lại”23Luật Tiểu phẩm, chương Tỳ Khưu Ni, số 601- Bản dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ của Tỳ Khưu Indacanda.

Mặt khác, vị Tỳ Khưu Theravāda phối hợp với Tỳ Khưu Ni Đại Hàn, Đài Loan hay Trung Quốc cho cô Ni giới tử thọ giới Upasampadā, cô Ni ấy là Tỳ Khưu Ni Theravāda thuần nhất, điều này khó chấp nhận.

Trong Trung Bộ Kinh II, kinh Assalāyana (MN93)24M.ii, 147, Đức Thế Tôn hỏi thanh niên Assalāyana:

– Này Assalāyana, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ở đây một nam tử Khattiya cưới một nữ nhân Bà la môn làm vợ, do hôn phối này, họ sanh được đứa con trai. Đứa con trai ấy, sanh ra từ nam tử Khattiya (Sát đế lỵ) và nữ nhân Bà la môn, nó giống mẹ nó hay nó giống cha nó, nó được gọi là Khattiya hay được gọi là Bà la môn?

– Thưa Tôn giả Gotama, đứa con trai ấy sanh ra từ nam tử Khattiya và nữ nhân Bà la môn, nó giống mẹ nó và cũng giống cha nó, được gọi là Khattiya và cũng được gọi là Bà la môn.

– Này Assalāyana, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ở đây một nam tử Bà la môn, cưới một nữ nhân Khattiya và do hôn phối này, họ sanh được đứa con trai. Người con trai ấy được sanh từ nam tử Bà la môn và nữ nhân Khattiya, nó giống mẹ nó, hay giống cha nó, nó được gọi là Khattiya (hay) cũng được gọi là Bà la môn.

– Thưa Tôn giả Gotama, người con trai sanh ra từ nam tử Bà la môn và nữ nhân Khattiya, nó vừa giống cha nó, nó vừa giống mẹ nó, nó được gọi là Khattiya và cũng được gọi là Bà la môn.

Đoạn kinh trên cho thấy sự phối hợp như thế không còn nguyên vẹn là nguyên thuỷ. Người Ấn Độ cổ rất xem trọng sự thuần chủng (Ājānīya) (chữ Ājānīya # ājañña: giòng giống tốt) như trong Tương Ưng I, chương Tương Ưng Chư Thiên (Devatāsaṅyuttaṃ), kinh giai cấp Sát đế lỵ (Khattiyaruttaṃ)25S.i, 6. Đức Thế Tôn dạy:

“Giữa các hàng hai chân
Chánh Giác là tối thắng
Giữa các loài bốn chân
Thuần chủng là tối thắng…”
Sambuddho dvipadaṃ seṭṭho
Ājānīyo catuppadaṃ.
(HT. Thích Minh Châu dịch)

Chữ thuần chủng (ājānīya) là chỉ cho “giòng giống tốt, không bị pha trộn” như voi chúa Chaddanta hay ngựa Uposatha là vật sử dụng của vua Chuyển Luân.

Quan niệm của Phật giáo nói chung, quan điểm của Hệ phái Theravāda nói riêng; “Sự tu lên bậc trên là sự thành tựu từ pháp giới” nên cần được thuần nhất, không có sự pha trộn. Mỗi Tông- Hệ phái có nghi thức làm thành tựu giới phẩm khác nhau và có giá trị khác nhau, không thể đồng hoá là một dù cùng được gọi là Tỳ Khưu Ni.

Tuy sự pha trộn này có thể tốt hơn cũng có thể xấu hơn; như con sư tử (lion) phối hợp với con cọp (tiger), con của sự phối hợp này được gọi là Liger; con báo (leopard) phối hợp con sư tử (lion), con vật được sinh ra từ sự phối hợp này được gọi là Leopon, nó rất to.

Cũng có sự phối hợp lại sinh ra xấu hơn, như ngựa cái phối hợp với con lừa sinh ra con la. Cho dù tốt hơn hay xấu hơn, phẩm chất nguyên vẹn không còn.

Do vậy, các vị thông Luật, trì Luật không chấp nhận nữ giới tử thọ giới từ những vị sư Trung Quốc, từ những Tỳ Khưu Ni Đài Loan, Đại Hàn, Trung Quốc là Tỳ Khưu Ni Theravāda. Cả những giới tử Ni thọ giới từ những vị Sư Theravāda Tích Lan phối hợp với Tỳ Khưu Ni Đại Hàn, cũng không được xem là Tỳ Khưu Ni Theravāda chính thống.

Tiếp theo những vị Tỳ Khưu Tích Lan cùng với những Tỳ Khưu Ni Tân lập đến Saranath tổ chức lễ truyền giới Upasampadā lại bằng tiếng Pāli. Mục đích việc này là gì? Để được Giáo hội Theravāda Tích Lan chấp nhận “thế hệ sau” của họ là Tỳ Khưu Ni Theravāda.

“Thế hệ I” không phải là Tỳ Khưu Ni Theravāda; làm sao từ thế hệ I lại sản xuất ra thế hệ II; thế hệ II lại là Tỳ Khưu Ni Theravāda được. Lập luận này ngược đời, không thuyết phục được.

Như đã nói ở trước, Tỳ Khưu Theravāda không thể cho một nữ nhân không phải là Tỳ Khưu Ni một phía của Tỳ Khưu Ni được thọ giới lên bậc trên. Như vậy, cho dù có thọ giới lần hai bằng nghi thức tuyên ngôn bằng tiếng Pāli, cũng không thành tựu Tỳ Khưu Ni.

Dịch phẩm trang 41, có ghi: “Trong lúc vẫn công nhận lễ thọ giới trước từ chư Tăng Ni các truyền thống khác”.

Ở đây, nên ghi nhận rằng:

“Sự thọ giới trước từ các vị Tỳ Khưu Theravāda phối hợp với Tỳ Khưu Ni Đại Hàn hay từ các vị Tỳ Khưu Trung Quốc với các Tỳ Khưu Ni Đài Loan hay Trung Hoa hay Đại Hàn. Tất cả các vị Ni ấy được gọi là Tỳ Khưu Ni Đại thừa, không phải là Tỳ Khưu Ni Theravāda”.

Tức là Tăng đoàn Tích Lan không phủ nhận họ là Tỳ Khưu Ni Đại thừa, nhưng phủ nhận họ là Tỳ Khưu Ni Theravāda.

Trong Tăng Chi Kinh, Chương Ba Pháp, Kinh Các Nguyên Nhân (Vidānasuttaṃ)26A.i, 134, Đức Phật dạy:

“Ví như này các Tỳ Khưu, các hạt giống không bị bể vụn, không bị hư thối, không bị gió và nắng làm hư, còn tươi tốt, được khéo gieo vào đồng ruộng tốt, được trồng vào đất khéo sửa soạn và được trời mưa xuống đều đặn, các hạt giống ấy, này các Tỳ Khưu, được lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh…”

Đoạn kinh văn trên cho thấy hạt giống không bị hư hoại do bể vụn, do hư thối… được tăng trưởng lớn nhanh”. Và như vậy Tỳ Khưu Ni Đại thừa chỉ làm thành tựu Tỳ Khưu Ni Đại thừa mà thôi.

Dịch phẩm trang 41, có ghi: “Chư Tăng Srilaṅka chấp nhận họ vào Tăng đoàn Nguyên thuỷ… với các vị huynh đệ của họ ở Srilaṅka”.

Đoạn văn trên cho thấy dịch giả có sự xảo biện ngôn ngữ, không có sự chân thật; Khi nói rằng “chư Tăng Srilaṅka chấp nhận họ vào Tăng đoàn Nguyên Thuỷ”.

Cho đến hôm nay Giáo hội Tăng đoàn ở Srilaṅka không hay chưa công nhận đó là “Tỳ Khưu Ni Theravāda” như vậy “Chư Tăng Srilaṅka nào chấp nhận?”; nói rõ hơn “Chư Tăng Srilaṅka chấp nhận họ, chính là các Tỳ Khưu ủng hộ việc phục hồi hội chúng Tỳ Khưu ở Srilaṅka”. Việc sử dụng ngôn ngữ để xảo biện như thế mặc dù khá tài tình nhưng lại không thể chấp nhận được.

Lại nữa, trong đoạn văn ấy có đoạn “những thủ tục đúng Luật của Tăng đoàn, với các vị huynh đệ của họ ở Srilaṅka”, cũng là cách xảo biện ngôn ngữ, không nói rõ “Tăng đoàn nào” chỉ nói chung chung là Tăng đoàn để nhiễu sóng, nên nói rõ là “trong sinh hoạt của những vị Tỳ Khưu ủng hộ việc phục hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda”; còn nói “huynh đệ của họ ở Srilaṅka”; điều này là đúng như vậy, vì trong xứ Srilaṅka đâu có Tỳ Khưu Ni Theravāda, chỉ có các Tỳ Khưu Ni Đại thừa vừa được thành lập; điều ấy không có gì lạ.

Trong Tương Ưng Kinh II, chương Tương Ưng Giới (Dhātusaṃyuttaṃ), kinh Sự Đi Kinh Hành (Caṅkamasuttaṃ)27S.ii, 155, Đức Phật dạy:

“Này các Tỳ Khưu, tuỳ thuộc theo giới, các chúng sanh cùng hoà hợp, cùng đi với nhau”.
“Dhātusova, bhikkhave, sattā saṃsandanti samenti”.

Dịch phẩm trang 43 có ghi: “Không có điểm nào trong chính kinh văn, hoặc một nơi nào khác trong Luật tạng Pāli đặt ra một điều Luật khẳng định rõ ràng rằng, trong trường hợp Ni đoàn Tỳ Khưu Ni bị diệt vong, chư Tăng bị cấm không được trở lại tiến hành làm lễ xuất gia cho phụ nữ và truyền giới đầy đủ cho Ni để phục hồi lại Ni đoàn”.

Thật ra, trong Tạng kinh lẫn Tạng luật, cũng không có nơi nào Đức Phật di ngôn: “Khi Ni đoàn Tỳ Khưu Ni bị diệt vong, các Tỳ Khưu nên tiến hành làm lễ xuất gia cho nữ nhân tu lên bậc trên”.

Với những người tin Đức Thế Tôn là bậc Toàn Giác, hẳn phải tin rằng: “Đức Thế Tôn biết rõ vào một giai đoạn nào đó, Tỳ Khưu Ni bị biến mất. Nếu muốn phục hồi Ni chúng trở lại, chắc chắn Ngài có di ngôn. Điều này chúng ta có thể tìm thấy trong Trường Bộ II, kinh Đại Viên Tịch (Mahāparinibbānasuttanta) (DN16)28D.ii, 72 ghi nhận một loạt những di ngôn của Đức Thế Tôn như sau:

a. Dạy Ngài Ānanda hãy tán thán công hạnh của người thợ bạc Cunda.

– Này Ānanda, cần phải làm cho thợ bạc Cunda tiêu tan hối hận.

b. Dạy bốn hội chúng: Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ tôn kính, cúng dường, lễ kính Đấng Như Lai bằng cách hành trì chánh pháp.

– Này Ānanda, nếu có vị Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cư sĩ nam hay Cư sĩ nữ nào thành tựu chánh pháp và tuỳ pháp, sống chơn chánh trong chánh pháp, hành trì đúng chánh pháp, thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai với sự cúng dường tối thượng.

c. Dạy các Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ cần phải đến bốn Thánh tích để chiêm ngưỡng và tôn kính. Bốn Thánh tích đó là:

– Đây là chỗ Như Lai đản sanh (Idha Tathāgato jāto’tipi).

– Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ Vô thượng Chánh Đẳng Giác (Idha Tathāgato anuttaraṃ Sammāsambodhiṃ abhisambuddho’tipi).

– Đây là chỗ Như Lai chuyển pháp luân vô thượng (Idha Tathāgatena anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattiyan’tipi).

– Đây là chỗ Như Lai viên tịch (Idha Tathāgato anupādisenasāya nibbānadhātuyā parinibbuto’tipi).

d. Xử sự kim thân Đức Thế Tôn như cách xử xự thân của vua Chuyển Luân Vương.

e. Sau khi Đức Thế Tôn viên tịch, Pháp và Luật được Đức Thế Tôn giảng dạy là Bậc Đạo Sư của hàng tứ chúng.

– Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy là Bậc Đạo Sư của các ngươi.

f. Cách xưng hô với nhau:

– Vị Tỳ Khưu Trưởng lão hãy gọi vị Tỳ Khưu Niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả (āvuso).

– Vị Tỳ Khưu Niên thiếu, hãy gọi vị Tỳ Khưu Trưởng thượng là “Bạch Ngài (bhaṅte)” hay “Đại đức (āyasmā)”.

g. Sau khi Như Lai viên tịch, nếu chúng Tăng muốn, có thể huỷ bỏ những học giới nhỏ nhặt tiểu tiết (ākaṅkhamāno Ānanda saṃghomam’accayenakhuddāmikhudakāni sikkhāpadāni samūhantu).

h. Phạt phạm đàn (Brahmadaṇḍa) với Tỳ Khưu Channa (Xa- Nặc).

Những điều trên cho thấy Đức Thế Tôn không bận tâm đến việc “cần phục hồi hội chúng Tỳ Khưu Ni Theravāda”; vì vẫn còn hội chúng Tỳ Khưu Ni ở những bộ phái khác. Sự nghiêm khắc giới luật đối với các Tỳ Khưu Ni, hạn chế sự phát triển của Ni chúng cũng phần nào nói lên ý nghĩa này.

Trong những điều di ngôn của Đức Thế Tôn. Về điều “Sau khi Như Lai viên tịch, nếu chúng Tăng muốn, có thể huỷ bỏ những học giới nhỏ nhặt và tiểu tiết”.

Trong cuộc kết tập Phật ngôn lần I, Ngài Ānanda đã trình lên Tăng chúng điều này, sau khi thảo luận, Ngài Mahā Kassapa vị chủ toạ tuyên ngôn quyết định: “Giữ lại toàn bộ giới Luật, không bỏ bớt điều học nào”.

Tức là các Ngài Thánh Tăng quyết định: “Không tạo thêm điều Luật mới nào, cũng không bỏ bớt điều học nào”.

Trong tập Milindapañha (Milinda vấn), Ngài Nāgasena giải thích điều này với vua Milinda, trong câu hỏi đầu tiên của phẩm Không Bị Chia Rẽ (Abhejjavagga); câu hỏi 1. Khuddānukhuddakapañho: “Câu hỏi về các điều nhỏ nhặt và tiểu tiết”.

Ngài Nāgasena đã trả lời vua Milinda về điều này là: “Đức Như Lai dạy điều này là thử ý của các vị Tỳ Khưu rằng: “Sau khi Ta tịch diệt, các đệ tử của Ta, trong khi hết bị ràng buộc với Ta, thì sẽ loại bỏ các điều học nhỏ nhặt và tiểu tiết, hay là sẽ gìn giữ?” Ngài Nāgasena có hỏi vua Milinda rằng:

– Thưa Đại vương, như vua Chuyển Luân có thể nói với các con trai như vầy: “Này các con! Lãnh thổ rộng lớn này được bao bọc bởi đại dương ở tất cả các phương. Này các con, để duy trì chừng ấy (lãnh thổ) bằng binh lực là việc làm khó khăn. Này các con, sau khi ta mệnh chung, các con có thể buông bỏ các khu vực biên địa”.

– Thưa Đại vương, phải chăng sau khi vua cha mệnh chung, các hoàng tử có thể buông lơi tất cả các khu vực biên địa ấy là phần lãnh thổ đã nằm trong tay?

– Thưa Ngài, không đúng. Thưa Ngài, các vị vua còn ham muốn nhiều hơn. Các hoàng tử vì lòng tham đối với vương quốc, có thể tóm thâu lãnh thổ hai lần, ba lần hơn thế nữa, làm sao họ có thể buông lơi phần lãnh thổ đã nắm trong tay.

– Thưa Đại vương, tương tự như thế, Đức Như Lai thử ý các vị Tỳ Khưu đã nói như vậy: “Này Ānanda, sau khi Ta viên tịch, chúng Tăng nếu muốn có thể huỷ bỏ các điều học nhỏ nhặt và tiểu tiết.

– Thưa Đại vương, nhằm sự giải thoát hoàn toàn khổ đau, những người con trai của Đức Phật với lòng hoan hỷ với Giáo Pháp, có thể còn gìn giữ còn nhiều hơn một trăm năm mươi điều học, làm sao các vị lại buông lơi điều học đã được quy định theo truyền thống.

Và Ngài Nāgasena giải thích:

– Thưa Đại vương, điều học nhỏ nhặt là tội dukkaṭa (làm sai quấy); điều học tiểu tiết là tội (dubbhāsita) (đã nói sái quấy).


Ghi chú:

  • 1
    Mahāvamsa. v; Dīpavaṃsa.v
  • 2
    Sđd. tr. 323
  • 3
    Sđd, tr. 267
  • 4
    Sđd. tr. 368
  • 5
    Sđd. tr. 369
  • 6
    Sđd. tr. 371
  • 7
    Sn, 42
  • 8
    Mhv.xii.6, 44; Dpv. Viii, 12
  • 9
    Ud. 15
  • 10
    Trường Bộ Kinh, kinh Đại Viên Tịch D.ii, 141
  • 11
    (BuA. 247) (DA. ii, 424)
  • 12
    Mhv. Xxiv, 31
  • 13
    Beal: Records of the Western word, ii, 45
  • 14
    M.i, 91
  • 15
    M.ii, 214
  • 16
    A.ii, 235
  • 17
    M.i, 63
  • 18
    Trường Bộ Kinh, kinh Đại Viên Tịch D.ii, 151
  • 19
    MA.ii, 9
  • 20
    MA.ii, 9
  • 21
    Mhv. Xxxiii, 95
  • 22
    Sđd. trang 186
  • 23
    Luật Tiểu phẩm, chương Tỳ Khưu Ni, số 601- Bản dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ của Tỳ Khưu Indacanda
  • 24
    M.ii, 147
  • 25
    S.i, 6
  • 26
    A.i, 134
  • 27
    S.ii, 155
  • 28
    D.ii, 72