WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Lược dẫn

Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda

Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh

Chương I
Ấn Độ trước khi Đức Phật xuất hiện

Lời nói đầu

Viết về nữ nhân là một điều vô cùng tế nhị. Nữ nhân như dòng suối mát dịu hiền hoà đồng thời cũng là những cơn bão lửa bốc cao thiêu trụi một vùng trời mênh mông không định.

Nữ nhân như những dòng sữa ngọt ngào, cũng không thiếu đi vị đắng của những chiếc lá sầu đâu. Không nên xem thường nữ nhân sẽ có ngày thân bại danh liệt về những người được xem là liễu yếu đào tơ ấy.

Những dòng chữ đề cao sự tốt đẹp của nữ nhân, không phải là những lời ton hót, ve vuốt vụng về của kẻ ngu nhân, mà đó là những lời nói lên phẩm chất vốn có thật của nữ giới khi được khéo trui rèn trong môi trường Thánh thiện.

Những dòng chữ nói về sự hạn chế, nhược điểm của nữ nhân, không phải là những lời bôi nhọ, chỉ trích hay phê phán thói hư tật xấu của nữ nhân, không phải là lời theo khuynh hướng một chiều của kẻ cực đoan thiên vị; đó cũng là nói lên một sự thật vốn tiềm ẩn lâu ngày trong cuộc hành trình sinh tử triền miên.

Những dòng chữ tốt đẹp dành cho nữ nhân nhằm mục đích sách tấn, khích lệ giúp nữ nhân tiến xa hơn trên lộ trình tuyệt hảo, đến đỉnh cao Chân – Thiện – Mỹ.

Những dòng chữ nói về hạn chế và nhược điểm, nhằm mục đích giúp nữ nhân ý thức được điều khiếm khuyết, để từ đó vượt lên chính mình, trở thành những viên ngọc quý xinh đẹp với nhiều màu sắc lung linh không tỳ vết, để trở thành những ngọn hải đăng rực sáng trong đêm, soi sáng vùng biển đen thăm thẳm.

Nữ giới đã viết lên những trang Phật sử đượm nét hào hùng bởi nhiều bậc nữ kiệt anh thư, đã dũng cảm chiến thắng những gian nan vất vả, đã nêu cao gương kiên trì dũng mãnh, đương đầu biện lý cùng kẻ ác xấu Ma Vương, đã khiến cho Ma Vương phải sững sờ biến mất tại chỗ. Thủ lãnh là Chúa Ma đã bị khuất phục, thì còn nói gì đến hội chúng tuỳ tùng nhỏ nhoi của thế lực ác xấu.

Anh thư nữ kiệt rạng Tây Đông,
Chí lớn vang lừng khắp núi sông,
Nào phải má đào cam yếu đuối,
Lưu danh sử sách, rạng tôn phong.

Tuy vậy, nữ giới cũng viết lên những trang mang dấu ấn lọ lem, mang vết nhơ sâu đậm khó xoá nhoà. Pháp hữu vi là thế, có ưu cũng có nhược, không hoàn toàn tốt đẹp một cách toàn mỹ cũng không hoàn toàn xấu xa một cách đáng khinh thường.

Nữ giới là một lực lượng hộ trì Phật Pháp nhiều nhất và mạnh nhất; nhưng cũng có khả năng gây nhiễu hại, tai vạ đến đời sống Phạm hạnh của Tăng chúng nhất, khiến đời sống Phạm hạnh của giới Tăng lữ bể vụn và sụp đổ. Tất cả chỉ do bản chất thiên về tình cảm yếu mềm, thường chạy theo con tim, xa lìa khối óc và lãng quên lý trí.

Một buổi lễ được tổ chức theo nghi thức Phật giáo, số lượng nữ giới tham dự có thể nói là chiếm đa số so với nam giới. Niềm tín tâm ngập tràn, nhưng triều tham ái cũng không kém phần cuồn cuộn.

Dịch phẩm “Sự phục hồi của hội chúng Tỳ Khưu Ni trong truyền thống Nguyên thuỷ”; nguyên tác bằng Anh ngữ “The revival of Bhikkhunī Ordination in the Theravāda tradition” của Trưởng lão Bodhi, được cô Nguyên Hương tức Tỳ Khưu Ni Dhammanandā (Pháp Hỷ) dịch sang Việt ngữ, xuất bản năm 2010. Nhưng mãi đến những tháng cuối năm 2022, tôi mới được tiếp cận, nguyên nhân là do tôi không lưu ý đến sự kiện này, tuy được nghe có vài nữ tu thọ giới Tỳ Khưu Ni ở Tích Lan trở về Việt Nam, nhưng tôi không quan tâm đến điều này.

Một duyên sự khác lại xảy đến, một clip giảng pháp của một cô Tỳ Khưu Ni tân lập, trong bài giảng cô tự hào về phẩm mạo Tỳ Khưu Ni tân lập của mình, tỏ vẻ khinh bạc hệ thống tu nữ, chê bai các tu nữ Miến Điện. Một vị sư không hài lòng với tính cách này của cô Tỳ Khưu Ni tân lập ấy, mang clip thuyết giảng pháp của cô Tỳ Khưu Ni tân lập đến hỏi ý kiến tôi. Tôi cũng đã trả lời trên trang Facebook của vị ấy.

Và rồi dịch phẩm trên được gửi đến tôi. Khi đọc dịch phẩm tôi nhận thấy có nhiều bất ổn, nhiều thiếu sót hay không thận trọng trong cách dùng từ, vô tình xuyên tạc Đức Thế Tôn, khinh thường Giáo Pháp mà không biết, không thấy.

Tôi không có ý kiến gì về nguyên tác, vì tôi rất xa lạ với Anh ngữ nên không nắm bắt được ý nghĩa của nguyên tác.

Có những trường hợp được gọi “dịch là giết”, dịch giả mượn nguyên tác rồi phóng tác theo ý mình qua dịch phẩm. Do đó, tôi chỉ có ý kiến đối với dịch phẩm, không bình phẩm chi đến nguyên tác.

Qua cách dùng từ của dịch giả, tôi hơi nghi ngờ về trình độ Phật học theo truyền thống Theravāda của dịch giả, dù rằng ông Bình An Sơn có giới thiệu khái lược về tiểu sử dịch giả, dịch giả có tu học tại Myanmar (Miến Điện) tại Đại học Hoằng Pháp Phật Giáo Theravāda Quốc tế, Yangon. Sau dấu chấm câu, ông Bình An Sơn có viết thêm “Sư cô tốt nghiệp cao đẳng và cử nhân Phật học”; tôi nghi ngờ về tính khách quan và trung thực của câu này, ông Bình An Sơn không nói rõ là tốt nghiệp cử nhân Phật học ở trường Đại học Hoằng Pháp Phật Giáo Theravāda Quốc Tế hay ở nơi nào khác, tính lấp lửng như vậy là sự gây nhiễu đối với người đọc.

Lại nữa, một điều khiến tôi có sự nghi ngờ, theo Tạng Luật một vị Tỳ Khưu Ni phải có thâm niên là mười hai năm mới được cho cô Ni xuất gia thọ đại giới Tỳ Khưu Ni.

Lễ thọ giới đầu tiên để phục hồi Hội chúng Tỳ Khưu Ni Theravāda được tổ chức ở Saranath vào tháng 12 năm 1996.

Năm 2003, cô Nguyên Hương sang Srilanka thọ giới Tỳ Khưu Ni ở Amuradhapura với vị thầy tế độ là Ni sư Kusama. Tôi muốn hỏi vị Ni sư này là Tỳ Khưu Ni Theravāda hay Tỳ Khưu Ni Đại thừa? Nếu là Tỳ Khưu Ni Theravāda thì sai với Luật của Đức Thế Tôn, còn đó là vị Ni sư Đại thừa thì cô Nguyên Hương là Tỳ Khưu Ni có dấu vết Đại thừa; điều này tôi đã trình bày trong tác phẩm.

Đọc dịch phẩm “Sự phục hồi của Hội chúng Tỳ Khưu Ni theo truyền thống Nguyên thuỷ”, với những lập luận được nêu dẫn, dường như đó là một hợp lý hợp pháp. Nhưng khi suy ngẫm và quán sát kỹ thì thấy có những điểm không thuyết phục và cách lập luận có khuynh hướng một chiều để ủng hộ cho sự phục hồi hội chúng Tỳ Khưu Ni, bỏ qua những khía cạnh khác của những đoạn kinh được trưng dẫn; và về điểm này tôi đã trình bày ý kiến của mình.

Tuy tác phẩm này ra đời khá muộn so với dịch phẩm, nhưng dù sao muộn vẫn hơn không.

Điều tôi mong muốn là “Xin các bậc Trí giả hoan hỷ tha thứ những lỗi vô ý xúc phạm và chỉ dạy thêm những điều lợi ích cho riêng tôi cùng đại chúng.”

Chùa Bồ Đề, ngày 25/2/2023
Tỳ Khưu Chánh Minh Cẩn bút

Những chữ viết tắt

A. Aṅguttara nikāya (Tăng Chi Bộ kinh)
AA. Aṅguttara Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Tăng chi)
Ap Apadāna
D. Dīghanikāya (Kinh Trường bộ)
DA. Dīghanikāya Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Trường bộ)
Dhp. Dhammapāda (Kinh Pháp cú)
DhpA. Dhammapāda Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Pháp cú)
Dpv Dīpavaṃsa (Đảo sử)
DpvA. Dīpavaṃsa Aṭṭhakathā (Sớ giải Đảo sử)
J. Jātaka (Kinh Bổn sanh)
JA. Jātaka Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Bổn sanh)
M. Majjhima nikāya (Kinh Trung bộ)
MA. Majjhima nikāya Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Trung Bộ)
Mhv. Mahāvaṃsa (Đại sử)
Mil. Milindapañhā (Milinda hỏi)
S. Saṃyuttanikāya (Kinh Tương Ưng)
SA. Saṃyuttanikāya Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Tương Ưng) Sn. Suttanipāta (Kinh Tập)
SnA. Suttanipāta Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Tập)
Sp. Samantapasādikā (Sớ giải Tạng Luật) Thag. Theragāthā (Kệ Trưởng lão Tăng)
ThagA. Theragāthā Aṭṭhakathā (Sớ giải Kệ Trưởng lão Tăng)
Thig. Therīgāthā (Kệ Trưởng lão Ni)
ThigA. Therīgāthā Aṭṭhakathā (Sớ giải Kệ Trưởng lão Ni)
Ud. Udāna (Phật Tự thuyết)
UdA. Udāna Aṭṭhakathā (Sớ giải kinh Phật Tự thuyết)
Vin. Vinaya (Luật Tạng)

Ấn Độ trước khi Đức Phật xuất hiện

Theo Kinh Sáu Thanh Tịnh (Chabbisodhanasuttaṃ) (số 112)1M.iii, 29 pháp hành vận chuyển theo sáu giới là: địa giới, thuỷ giới, hoả giới, phong giới, không giới và thức giới. Sáu chất này tạo ra thế giới quan sinh động đa dạng, sai biệt với nhiều màu sắc. Ngoại trừ những pháp vô mạng quyền (anindriya dhamma) như đất, đá, núi, sông, biển, mặt trời, mặt trăng, tinh tú… Các pháp có mạng quyền (sandriya dhamma) là những sinh vật cũng đa dạng không kém, có những sinh chúng không chân, nhiều chân và hai chân với những nét sai biệt lẫn nhau. Dù có đa dạng như thế nào, phần lớn sinh chúng được quy kết vào hai giới tính: giống đực, giống cái.

Tuỳ theo chủng loại, các sinh vật được định danh khác nhau:

– Những sinh vật thuộc chủng loại có cánh như những loại chim, thì được gọi là Trống (chỉ cho giống đực); Mái (chỉ cho giống cái) như: chim trống, chim mái, gà trống, gà mái…

– Những sinh vật không có cánh, có lông mao hoặc không có lông, sống ở trên bờ, thì định danh là: đực, cái. Như trâu đực, trâu cái, sư tử đực, sư tử cái, rắn đực, rắn cái…

– Những sinh vật có khả năng sống dưới nước hoặc cả dưới nước lẫn trên bờ, có thể được gọi hỗn hợp chung cả hai cách: trống- mái hay đực – cái, như: sấu đực, sấu cái, rùa đực, rùa cái, cá trống, cá mái…

– Về sinh chủng là người hay thiên nhân thuộc sinh chủng cao cấp, danh từ để phân biệt giới tính là nam hay nữ, như người nam người nữ, thiên nam, thiên nữ; cũng có thể gọi là con trai, con gái.

Và như vậy, phần lớn sinh chúng được phân ra hai giới tính.

Trong hai giới tính, giới tính nam được xem như có sức mạnh hơn giới tính nữ; do đó dẫn đến “lấn áp” giới nữ. Giới nữ lại có khuynh hướng phục tùng, nên dần dần họ cảm thấy có sự bất bình đẳng, và tạo ra phong trào “bình đẳng giới”.

Ủng hộ đòi “bình đẳng” chống lại bất bình đẳng là giới nữ.

“Sự bình đẳng” này bao hàm nhiều khía cạnh như: Kỳ thị về màu da, kỳ thị về giai cấp, kỳ thị về quyền lợi, kỳ thị về thế lực…

Trong khoảng hơn bốn mươi năm gần đây, phong trào nữ quyền bùng lên không ngớt làm xao động, náo động dư luận.

Năm 1952, tổ chức Liên Hiệp Quốc đã tuyên ngôn về quyền lợi chính trị của nữ giới.

Năm 1975, Liên Hợp Quốc triệu tập Hội nghị Thế giới và nữ quyền tại Mexico. Và năm 1975 được gọi là, năm Quốc Tế Nữ Quyền.

Mười năm sau, vào năm 1985, Liên Hợp Quốc họp tại Nairobi ở Phi Châu. Nữ quyền được bàn đến và nữ giới có quyền sinh sản làm mẹ, quyền tự do lựa chọn ngừa thai, phá thai hay giữ thai.

Lại mười năm sau nữa, vào năm 1995. Liên hợp quốc tổ chức Hội nghị nữ quyền Thế giới ở Bắc Kinh; thủ đô nước Trung Hoa.

Nữ nhân sống trong thời Trung Hoa cổ, luôn luôn chịu đựng sự bất công, sống như một kiếp nô tỳ, không có quyền phản kháng, bằng câu khẩu hiệu “Phu xướng phụ tuỳ” đã tước đoạt quyền phản kháng khi bị áp bức, chỉ có quyền duy nhất là “lãnh chịu, phục tùng” như một nữ nô.

Lại nữa, với khuôn mẫu của Khổng giáo, nữ nhân bị trói buộc bởi luật “tam tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (người con gái khi còn ở nhà phải nghe theo Cha, khi lấy chồng phải nghe theo chồng, khi chồng chết phải làm theo ý kiến của con trưởng). Như vậy, trọn cả cuộc đời nữ nhân chỉ có một chữ “tòng” mà thôi. Thật sự đó là một áp bức.

Liên Hiệp Quốc tổ chức Đại hội Nữ Quyền Thế Giới tại Bắc Kinh, với một trăm tám mươi lăm quốc gia tham dự, với bốn ngàn đại biểu chính phủ, thảo luận trong mười ngày, nhằm thay đổi đường lối, chính sách của các quốc gia, để cải thiện phương tiện giáo dục, y tế, kinh tế, chính trị cho giới nữ lưu.

Trong lĩnh vực Tôn giáo cũng vậy, phong trào nữ quyền phối hợp với phong trào canh tân tôn giáo, đã làm rung chuyển tận gốc rễ giáo lý Gia Tô giáo cũng như Hồi giáo, nhằm mục đích giải phóng nữ giới thoát ra những quy định khắc khe của tôn giáo như ngừa thai, phá thai… Và giúp người nữ tu được bình đẳng trong nhiệm vụ tín ngưỡng thiêng liêng, hưởng trọn vẹn quyền lợi như một nam tu sĩ.

Thật vậy, nơi nào có áp bức, nơi ấy có phản kháng, nơi nào có phản kháng nơi ấy có biến động. Nhiều biến động hội lại sẽ trở thành cơn chẤn Động, đó là một quy luật diễn tiến.

Nữ giới được xem là phái yếu, nhưng không nên xem thường, một khi họ trỗi dậy, có thể gây ra chấn Động lớn.

Trên mặt biển phẳng lặng êm ả kia, ẩn tàng bên dưới là những lượn sóng ngầm, khi kết tụ những lượn sóng ngầm lại, nó có thể cuốn trôi, nhận chìm những chiến thuyền to lớn.

Không nên xem thường sức mạnh của nữ giới, dù rằng sức mạnh này không hiển lộ như sức mạnh nam giới, nhưng sức mạnh của nữ nhân âm thầm đóng góp vào sự thành công hoặc thất bại của nam giới. Lịch sử cũng đã có nhiều chứng minh cho điều này, như Nguyên Phi Ỷ Lan hai lần nhiếp chính cho triều Lý là Lý Thánh Tôn và Lý Nhân Tôn, đem lại thanh bình, an lành cho đất Việt.

Theo lịch sử Trung Hoa, tiếng cười của nàng Bao Tự khi thấy chư hầu nhà Châu hăm hở kéo đến Phong hoả đài để cứu giúp vua U Vương, nhưng tỉu nghỉu ra về, tiếng cười ấy báo hiệu làm sụp đổ nhà Châu hùng mạnh; một Tô Đắc Kỷ ma mị làm sụp đổ triều đại Thành Thang của Ân Trụ. Nàng Tây Thi chỉ nhăn mặt mà làm đổ nát cả giang sơn Ngô Phù Sai.

Theo thần thoại Hy Lạp, trận chiến thành Troit kéo dài mười năm, làm tổn hao tài vật cùng sinh mạng tướng sĩ cả hai bên, nhiều danh tướng huyền thoại như Archill phải ngã gục, tất cả chỉ vì sắc đẹp của nàng Helen.


Ghi chú:

  • 1
    M.iii, 29