WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Nàng Sujātā

Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda

Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh

Chương II
Phật giáo với Nữ giới

Những ưu điểm của Nữ nhân

Nàng Sujātā là con gái thứ hai của Trưởng giả Dhanañjaya, là em gái của bà Visākhā.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) cưới nàng Sujātā về làm vợ cho con trai của ông là Kāla. Nàng Sujātā có tánh kiêu hãnh về gia sản của mình vì nàng đến từ một gia đình giàu có, nàng không vâng lời mẹ chồng, không vâng lời cha chồng, không vâng lời chồng; cũng không cung kính, không tôn trọng, không lễ bái, không cúng dường Đức Thế Tôn.

Trong Tăng Chi Kinh, Chương Bảy Pháp, Kinh Bảy Hạng Vợ (Sattabhariyāsuttaṃ) (số 59)1A.iv, 91 ghi nhận:

Vào một buổi sáng, Đức Thế Tôn đắp y, tay cầm y bát đến trú xứ của gia chủ Anāthapiṇḍika, Đức Thế Tôn ngồi vào nơi được soạn sẵn.

Lúc bấy giờ, trong trú xứ của gia chủ Anāthapiṇḍika, có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng. Đức Thế Tôn hỏi gia chủ Anāthapiṇḍika:

– Này gia chủ, vì sao trong nhà của ông, có nhiều người nói cao tiếng, nói lớn tiếng như những người đánh cá đang giành giựt cá.

Gia chủ Anāthapiṇḍika trình lên Đức Thế Tôn như trên.

Đức Thế Tôn cho gọi nàng Sujātā đến.

Đức Thế Tôn dạy nàng Sujātā:

“Có bảy hạng vợ cho người đàn ông” là:

1. Vaddhakasamā: Vợ như người sát nhân.
2. Corīsamā: Vợ như người ăn trộm.
3. Ayyasamā: Vợ như người chủ nhân.
4. Mātāsamā: Vợ như người mẹ.
5. Bhaginīsamā: Vợ như người chị.
6. Sakhīsamā: Vợ như người bạn.
7. Dāsīsamā: Vợ như nữ tỳ.

Theo lời thỉnh cầu của nàng Sujātā, Đức Thế Tôn giảng rộng bảy hạng vợ như sau:

1.
Ai tâm bị uế nhiễm
Không từ mẫn thương người
Thích thú những người khác
Khinh rẻ người chồng mình
Bị mua chuộc bằng tiền
Hăng say giết hại người.
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ sát nhân.

2.
Còn hạng nữ nhân nào
Tiêu xài tài sản chồng
Do công nghiệp mang lại
Hay thương nghiệp, nông nghiệp
Do vậy, nếu muốn trộm
Dầu có ít đi nữa,
Hạng người vợ như vậy
Được gọi là vợ ăn trộm.

3.
Không ưa thích làm việc
Biếng nhác, nhưng ăn nhiều
Ác khẩu và bạo ác
Phát ngôn lời khó chịu
Mọi cố gắng của chồng
Đàn áp và chỉ huy
Hạng người vợ như vậy
Được gọi vợ chủ nhân.

4.
Ai luôn luôn từ mẫn,
Có lòng thương xót người.
Săn sóc giúp đỡ chồng,
Như mẹ chăm sóc con.
Tài sản chồng cất chứa,
Biết hộ trì gìn giữ.
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như mẹ.

5.
Ai như người em gái,
Đối xử với chị lớn.
Biết cung kính tôn trọng,
Đối với người chồng mình.
Với tâm biết tàm quý;
Tuỳ thuận phục vụ chồng.
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như chị.

6.
Ai ở đời thấy chồng,
Tâm hoan hỷ vui vẻ.
Như người bạn tốt lành,
Đã lâu từ xa về.
Sanh gia đình hiền đức,
Giữ giới dạ trung thành.
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ như bạn.

7.
Không tức giận, an tịnh;
Không sợ hình phạt trượng.
Tâm tư không hiềm hận,
Nhẫn nhục đối với chồng.
Không phẫn nộ tức giận.
Tuỳ thuận lời chồng dạy.
Hạng người vợ như vậy,
Được gọi vợ nữ tỳ.

Rồi Đức Thế Tôn kết luận:

Các hạng vợ là: vợ sát nhân, vợ ăn trộm và vợ như chủ nhân. Ba hạng vợ này không có giữ giới, ác ngữ và vô lễ; khi mạng chung bị sanh vào địa ngục.

Bốn hạng vợ còn lại là: Vợ như mẹ, vợ như chị2Bản tiếng Anh của hội PTS: đây là loại vợ như em gái đối với anh trai., vợ như bạn và vợ như nữ tỳ; được an trú nơi giới đức, khéo phòng hộ lâu ngày, khi mệnh chung được sanh về nhàn cảnh. Và nàng Sujātā tự nguyện là hạng vợ như nữ tỳ. Ở đây “nữ tỳ (dāsī)” không mang ý nghĩa thấp kém, mà mang ý nghĩa đức hạnh vì thực hành hạnh “áp chế được sân hận, thực hành hạnh nhẫn nại, kiềm chế được ác ngữ”.

Như đã nói: “Nhu thuận hay tuỳ thuận” không phải là trạng thái nhu nhược hèn yếu. Mà đó là thái độ dịu dàng, phân tích đúng sai rồi dùng lời hoà nhã can ngăn. Như bà Hoàng Mallikā khuyên vua Pasenadi đến viếng Đức Thế Tôn về hiện tượng DU-SA-NA-SO, nhờ đó giải trừ tai hại cho chúng sanh; đó cũng là cách làm của nhu thuận, không phải lúc nào cũng làm theo ý muốn của chồng mà không suy xét.

Lại nữa, ý nghĩa này cũng tìm thấy trong Tăng Chi Kinh, Chương Hai Pháp, Phẩm Tâm Thăng Bằng, kinh Đất3A.i, 61 Đức Thế Tôn dạy:

– Này các Tỳ Khưu, ai đối với mẹ cha không có niềm tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào niềm tin. Đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích hướng dẫn các vị ấy an trú và thiện giới. Đối với mẹ cha bỏn xẻn, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí. Đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỳ Khưu là làm đủ và trả ơn đủ cho mẹ và cha.

Đoạn kinh văn trên cho thấy, ngoài cách báo hiếu thiết thực đến mẹ và cha. Cách thức khuyến khích, hướng dẫn rõ ràng phải dịu dàng, mềm mỏng, nhu nhuyến. Đó chính là nhu thuận. Như vậy “Sự nhu thuận” là một đặc tính tốt của nữ nhân, và đó cũng là đường tốt dẫn đến thành công của nữ nhân.


Ghi chú:

  • 1
    A.iv, 91
  • 2
    Bản tiếng Anh của hội PTS: đây là loại vợ như em gái đối với anh trai.
  • 3
    A.i, 61