WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Những sự hy sinh của nữ nhân đối với chồng con

Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda

Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh

Chương II
Phật giáo với Nữ giới

Những ưu điểm của Nữ nhân

Kinh điển Phật giáo cũng lưu lại những sự hy sinh của nữ nhân đối với chồng con, điển hình là tiền thân của bà Yasodharā trong Bổn sự Vessantara (số 547).

Khi Bồ tát Vesantara cho con voi quốc bảo đến xứ Kaliṅga nên bị đày ra khỏi xứ. Nàng Maddī là công chúa xứ Madda, là vợ Bồ tát Vessantara, tuy không án lưu đày, nhưng nàng tình nguyện bị lưu đày theo chồng.

Nàng Maddī cùng chồng là Vessantara và hai người con là trẻ Jāli và Kaṅhājinā; nàng ẵm con gái là Kaṇhājinā, còn Bồ tát ẵm trẻ Jāli. Cả bốn vị hoàng gia đi sâu vào núi Vaṃka để trú ngụ.

Bồ tát xuất gia làm ẩn sĩ, nàng Maddī cũng xuất gia làm nữ ẩn sĩ.

Nàng Maddī thỉnh Bồ tát hãy an tâm tu tập, còn nàng lo tìm vật thực cho cả bốn người sinh sống.

Hằng ngày vào rạng đông, nàng Maddī thức dậy mang nước uống, vật thực cùng nước rửa mặt, cây chà răng đến am thất của Bồ tát, nàng quét dọn sạch sẽ am thất, tắm rửa hai con sạch sẽ, giao chúng cho cha chúng, nàng đi vào rừng tìm trái cây, rau, củ rừng. Buổi chiều nàng Maddī mang củ quả, trái cây rừng về thảo lư của mình. Sau khi tắm rửa hai con xong, cả bốn vị ngồi dùng vật thực trước am thất của Bồ tát, sau đó nàng Maddī đưa hai con trở về am thất của mình.

Một nữ nhân lặn lội trong rừng để tìm vật thực về nuôi dưỡng chồng và hai con, thật là một hy sinh rất lớn; trong rừng nào có an toàn đâu, rẫy đầy tai hại bất ngờ xảy đến, nào là cọp, beo, sư tử, gấu, trăn, rắn… cùng các độc trùng khác, có khi phải lặn lội từ nơi này sang nơi khác trong rừng thẳm để tìm lượng thực, đây không phải là việc làm dễ dàng với nữ nhân.

Người ta nói: Trong sự thành công của người nam có ẩn tàng sự góp phần của nữ nhân, điều ấy không phải là cường điệu, tuy không hẳn hoàn toàn là như thế, nhưng không thể chối bỏ sự trợ giúp của nữ nhân.

Vị Bồ tát muốn trở thành Đấng Toàn Giác, về pháp bố thí vị ấy phải hoàn thành năm pháp đại thí; theo tập Kho Tàng Pháp Học do Đại Trưởng lão Bửu Chơn biên soạn, cũng như trong Buddhavaṃsa – aṭṭhakathā, ghi nhận năm pháp đại thí đó là:

1. Dhanapariccāga: Bố thí tài sản

2. Rajjapariccāga: Bố thí vương quyền

3. Puttadārapariccāga: Bố thí vợ con

4. Aṅgapariccāga: Bố thí chi thể như tay, chân, mắt, mũi…

5. Jīvitapariccāga: Bố thí mạng sống.

Trong tập Apadāna (Ký sự), ghi nhận ký sự về bà Yasodharā (Da Du Đà La) như sau:

Khi bà Yasodharā được bảy mươi tám tuổi, bà thấy thọ mạng mình sắp mãn, bà đến đảnh lễ Đức Thế Tôn xin được Vô dư Níp bàn.

Để làm nổi bật ân đức cao thượng mà nữ nhân có thể đạt được, Đức Thế Tôn dạy bà Yasodharā thể hiện năng lực thần thông. Bà đã thể hiện nhiều loại thần thông, bà thể hiện năng lực Túc mạng thông (nhớ về các kiếp sống quá khứ) với các kệ ngôn sau.

(987)
“Bạch đấng Đại hiền trí, Ngài đã bố thí con nhằm mục đích làm vợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài”.
Nekakoṭisahassānaṃ bhariyatthāya’dāsimaṃ. Natattha vimarāhomi tuyhatthāya mahāmuni.

(988) 
“Bạch đấng Đại hiền trí, Ngài đã bố thí con vì sự hỗ trợ (kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài”.
Neka kotisahassānaṃ upakārāya’dāsimaṃ Natattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.

(989)
“Bạch đấng Đại hiền trí, Ngài đã bố thí con nhằm mục đích vật thực (cho kẻ khác) nhiều ngàn koṭi lần. Con không có bất bình về điều ấy là nhằm mục đích về Ngài”.
Nekakoṭisahassānaṃ’ bhojanatthāya’dāsimaṃ Natattha vimanā homi tuyhatthāya mahāmuni.

(1koṭi = mười triệu)

Những kệ ngôn trên cho thấy, tiền thân bà Yasodharā đã được Bồ tát bố thí đến kẻ khác với các ý khác nhau, không phải chỉ vài lần mà hàng ngàn koṭi để giúp Ngài thành tựu ngôi vị Chánh Đẳng Giác; trong tất cả những lần bị bố thí như vậy, chưa một lần nào bà tỏ ý bất bình. Tất cả chỉ có mục đích giúp cho Bồ tát hoàn thành pháp Ba la mật để chứng ngộ Vô thượng Chánh Giác.

Quả thật đáng khâm phục cho hạnh lành hy sinh này của nữ nhân.

Trong Tương Ưng Kinh I, chương Tương Ưng Chư Thiên (Devatāsaṃyutta), kinh Sát Đế Lỵ (Khattiya sutta)1S.i, 6:

Một vị Thiên đến viếng Đức Thế Tôn, nói lên kệ ngôn về bốn điều tối thắng.

Vị Thiên:

“Giữa các hàng hai chân
Sát đế lỵ là tối thắng”.
“Giữa các hàng bốn chân
Bò đực là tối thắng”.
“Trong các hàng thê thiếp
Quý nữ là tối thắng”.
“Trong các hàng con trai
Trưởng nam là tối thắng”.
Khattiyo dvipadaṃ saṭṭho
Balībaddo catuppadaṃ
Komārī seṭṭhā bhariyānaṃ
Yo ca puttāna pubbajo’ti

Thế Tôn:

“Giữa các hàng hai chân
Chánh Giác là tối thắng”.
“Giữa các loài bốn chân
Thuần chủng là tối thắng”.
“Trong các hàng thê thiếp
Nhu thuận là tối thắng”.
“Trong các hàng con trai
Trung thành là tối thắng”.
Sambuddho dvipadaṃ seṭṭho
Ājānīyo catuppadaṃ
Sussūsā seṭṭhā bhariyānaṃ
Yo ca puttānamassavo’ti
(HT. Thích Minh Châu dịch)

Vị thiên cho rằng giai cấp Sát đế lỵ (Khattiya) là tối thắng trong hàng hai chân. Nhưng Đức Phật dạy: Chính bậc Chánh Giác là tối thắng.

Ngay cả vị Phạm Thiên trong hàng hai chân vẫn có thể rơi vào bốn khổ cảnh. Khi phước thiền suy giảm, vị Phạm Thiên tái sinh về nhân loại, sau kiếp nhân loại ấy, vị ấy có thể rơi vào bốn khổ cảnh (Xem Sớ giải kinh Pháp Cú Câu số 338- 343. Chuyện con heo nái tơ).

Tối thắng trong hàng Sát đế lỵ (Khattiya) là vua Chuyển Luân (Cakkavatti); vị vua này trị nước bằng pháp không phải bằng hình phạt, mệnh chung sinh về cõi Tāvatiṃsa (Ba mươi ba) nơi vườn Nandavana (Hoan hỷ lâm)2Xem Tương Ưng Bộ Kinh, Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Dự Lưu, kinh Vua, S.v, 342. Mệnh chung nơi Thiên giới vị ấy tái sanh về cõi người, sau đó có thể rơi xuống bốn khổ cảnh.

Vị Phật Độc Giác tuy tự mình chứng đạt giải thoát, thành tựu trạng thái vô sanh bất tử. Nhưng Ngài không thể tế độ chúng sanh có duyên lành, chứng đắc Thánh quả vô sanh bất tử như mình được. Chỉ có Đức Chánh Giác (Sammāsambuddho) tự mình chứng đạt Thánh quả giải thoát không còn sinh tử luân hồi, Ngài còn tế độ chúng sanh có duyên lành cũng chứng đạt sự giải thoát như Ngài. Do vậy Đức Thế Tôn dạy:

“Tối thắng trong hàng hai chân là bậc Chánh Giác”.
Sambuddho dvipadaṃ seṭṭho

Vị thiên cho rằng: Tối thắng trong hàng bốn chân là balī baddo: đúng ra là từ balibadda hay balivadda có nghĩa là bò đực.

Đức Thế Tôn dạy: Ājānīyo catuppadaṃ; chữ Ājānīya tương đương ājañña là “giòng giống tốt”; Hoà thượng Thích Minh Châu dịch là “thuần chủng”. Có thể hiểu “trong hàng bốn chân, con vật có giòng giống tốt là tối thắng.

Hoặc “thuần chủng”; thuần chủng ở đây là chỉ cho sự không lai tạo; con vật lai tạo, theo quan niệm Ấn cổ là không thuần chủng, không tốt.

Chính do quan niệm này, bộ tộc Sakya (Thích Ca) để huyết thống không bị lai tạo, nên các vị Hoàng tử con vua Okkāka đệ tam đã lấy các em gái của mình làm vợ (Xem Trường Bộ Kinh, kinh Ambaṭṭha)3D.i, 87. Các Bà la môn giữ huyết thống hệ Bà la môn được thanh tịnh cả bảy đời phụ hệ lẫn mẫu hệ.

Thật ra, có những loài lai tạo tốt hơn thuần chủng, cũng có những loài lai tạo mất đi đặc tính tốt của cha hay mẹ.

Như trong Trung Bộ Kinh II, kinh Assalāyana (Assalāyanasuttaṃ) (số 93)4M.ii, 147. Đức Thế Tôn dùng hình ảnh con la (Kisora, kisser, kissaro. Tiếng Sanskrit là Kis’ora) để nạn vấn thanh niên Bà la môn Assalāyana, khi giai cấp Bà la môn cho rằng: “Sự thuần chủng là tốt đẹp”. Đức Thế Tôn hỏi:

– Này Assalāyana, nhà ngươi nghĩ thế nào? Ở đây có con ngựa cái giao phối với con lừa. Do sự giao phối này, chúng sanh được con la (kisora). Con la ấy sanh ra từ con ngựa cái và con lừa, nó giống mẹ nó hay giống cha nó, nó được gọi là ngựa hay là lừa?

Câu hỏi này Đức Thế Tôn dùng để nạn vấn thanh niên Assalāyana. Trước đó, thanh niên Assalāyana cho rằng:

a. Người con trai được sanh ra từ cha là Sát đế lỵ; mẹ là nữ Bà la môn. Đứa con trai ấy nó giống cha nó và giống mẹ nó, nó được gọi là Sát đế lỵ, cũng được gọi là Bà la môn.

b. Người con trai được sanh ra từ cha là Bà la môn, mẹ là Sát đế lỵ. Người con trai ấy vừa giống cha nó, vừa giống mẹ nó; nó được gọi là Sát đế lỵ và cũng được gọi là Bà la môn.

Con la được sanh ra từ con ngựa cái và con lừa, nó không giống mẹ ở sự nhanh nhẹn, nó không giống cha (con lừa) ở sự bền bĩ. Nó không được gọi là con ngựa, cũng không được gọi là con lừa, nó chỉ được gọi là con la.

Theo quan niệm của người Ấn cổ, con thú thuần chủng là tốt nhất. Quan điểm của Đức Thế Tôn không là như thế nên chữ Ājānīya nên hiểu là “giòng giống tốt” hơn là “thuần chủng”.

Nhưng hãy nói về thuần chủng là chỉ cho giòng giống tốt. Những con voi hay ngựa có giòng giống tốt (hay thuần chủng) là biểu tượng của Đức vua. Chữ Ājānīya bản Sớ giải giải thích là: “Vị được biết, được giác hiểu”. Về loài bốn chân là chỉ cho con vật thông minh, như ngựa Kanthaka của Bồ tát Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) hay con ngựa của vua Kuṭakaṇṇa thuộc giống Ājānīya có tên gọi là Gulavaṇṇa5SA.i, 271; M.ii, 654.


Ghi chú:

  • 1
    S.i, 6
  • 2
    Xem Tương Ưng Bộ Kinh, Thiên Đại Phẩm, Tương Ưng Dự Lưu, kinh Vua, S.v, 342
  • 3
    D.i, 87
  • 4
    M.ii, 147
  • 5
    SA.i, 271; M.ii, 654