WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Nữ cư sĩ Suppiyā

Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda

Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh

Chương II
Phật giáo với Nữ giới

Những ưu điểm của Nữ nhân

Trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga II (Đại Phẩm II), chương Dược Phẩm (Bhesajjakkhandhakaṃ) ghi nhận về nữ cư sĩ Suppiyā như sau:

Một thời Đức Thế Tôn cùng đại chúng Tỳ Khưu du hành tuần tự, đến thành Bārāṇasī, Đức Thế Tôn trú ngụ nơi Isipatana nơi vườn Nai (Migādāya).

Bấy giờ nơi thành Bārāṇasī có nam cư sĩ Suppiya và nữ cư sĩ Suppiyā là Phật tử thuần thành, là người phục vụ, là người hộ độ Tăng chúng.

Khi nàng Suppiyā đi đến tự viện, nàng đi đến trú xá này đến trú xá khác, đi từ phòng này đến phòng khác, hỏi các vị Tỳ Khưu:

– Thưa các Ngài, vị nào bị bịnh? Vật gì cần được mang lại? Cho vị nào?

Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ Khưu uống thuốc xổ, vị Tỳ Khưu ấy đã nói với nữ cư sĩ Suppiyā.

– Này chị! Tôi đã uống thuốc xổ, tôi có nhu cầu về mùi vị của thịt.

– Thưa Ngài, tốt lắm. (Vật ấy) sẽ được mang lại.

Sau khi về nhà, nữ cư sĩ Suppiyā bảo người giúp việc rằng:

– Này chú em, hãy đi và tìm mua loại thịt đã được làm sẵn (pavattamaṃsa).

– Thưa cô chủ, vâng.

Nhưng người ấy đã đi rảo khắp thành Barāṇasī vẫn không tìm thấy loại thịt được làm sẵn. Người ấy đi đến nữ cư sĩ Suppiyā, nói với cô chủ.

– Thưa cô chủ, hôm nay không có thịt được làm sẵn. Hôm nay là ngày kiêng sát sanh. Khi ấy, nữ cư sĩ Suppiyā khởi ý rằng:

“Vị Tỳ Khưu bị bịnh ấy, không có được mùi vị của thịt, bịnh có thể trầm trọng hơn hoặc sẽ chết. Đối với ta, việc ta đã hứa mà không cho người đem lại là điều không đứng đắn”.

Nàng đã lấy con dao bén cắt miếng thịt ở đùi trao cho người tớ gái (nói rằng).

– Này em, hãy chuẩn bị miếng thịt này, rồi dâng đến vị Tỳ Khưu bị bệnh ở trong trú xứ kia, và có ai hỏi ta, hãy cho biết là “Cô chủ bị bịnh”.

Rồi nàng lấy thượng y quấn quanh đùi, đi vào phòng trong và nằm trên giường.

Sau đó nam cư sĩ Suppiya đã trở về nhà và hỏi người tớ gái.

– Nàng Suppiyā đâu rồi?

– Thưa chủ, bà nằm phòng trong.

Khi ấy nam cư sĩ Suppiya đi đến gặp nàng nữ cư sĩ Suppiyā, nói rằng:

– Vì sao nàng lại nằm?

– Em bị bịnh.

– Nàng bịnh gì vậy?

Nàng Suppiyā đã thuật lại câu chuyện đến nam cư sĩ Suppiya, nam cư sĩ Suppiya suy nghĩ rằng:

– Thật kì diệu thay, thật phi thường thay. Nàng Suppiyā đã được an trú vào niềm tin đến thế. Bởi vì ngay cả thịt của chính bản thân còn được dứt bỏ thì còn có gì khác nữa mà nàng không thể bố thí.

Cận sự nam Suppiya hoan hỷ, phấn chấn đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên, thỉnh cầu Đức Thế Tôn rằng:

– Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn nhận lời thọ thực nơi nhà con vào ngày mai cùng đại chúng Tỳ Khưu Tăng.

Đức Thế Tôn im lặng nhận lời.

Sau đó, khi trải qua đêm ấy, nam cư sĩ Suppiya đã chuẩn bị sẵn sàng vật thực thượng vị loại cứng loại mềm, rồi cho người đến Đức Thế Tôn báo giờ.

– Bạch Thế Tôn, đã đến giờ, vật thực đã chuẩn bị xong.

Khi ấy, vào buổi sáng, Đức Thế Tôn vận mặc y phục, tay cầm y bát, cùng với hội chúng Tỳ Khưu đi đến tư gia của gia chủ Suppiya, Ngài ngồi vào chỗ ngồi được soạn sẵn.

Nam cư sĩ Suppiya đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi đứng ở một bên. Đức Thế Tôn nói với nam cư sĩ Suppiya như sau:

– Nàng Suppiyā đâu rồi?

– Bạch Thế Tôn, nàng bị bệnh!

– Như vậy thì (nàng) hãy đến đây.

– Bạch Thế Tôn, nàng không đủ sức.

– Như vậy thì hãy ẵm rồi đưa nàng lại đây.

Nam cư sĩ Suppiya ẵm và đưa nàng Suppiyā đến đảnh lễ Đức Thế Tôn.

Khi Đức Thế Tôn nhìn thấy nàng Suppiyā, ngay khi ấy vết thương lớn lành lại, có làn da đẹp, có lông tơ mọc lên.

Thấy vậy, nam cư sĩ Suppiya và nữ cư sĩ Suppiyā hoan hỷ, phấn chấn, tự tay cúng dường vật thực đến Đức Thế Tôn và chư Tỳ Khưu, làm thoả mãn hội chúng Tỳ Khưu có Đức Phật đứng đầu với các vật thực thượng vị loại cứng loại mềm.

Sau khi thọ thực xong, Đức Thế Tôn thuyết lên pháp thoại làm thức tỉnh, khuyến khích, tạo niềm hoan hỷ đến gia chủ Suppiya và nữ cư sĩ Suppiyā, rồi Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy ra đi.

Sau đó, nhân duyên sự này, Đức Thế Tôn thuyết lên pháp thoại thích hợp đến các Tỳ Khưu, khiển trách vị Tỳ Khưu dùng thịt người mà không quán xét, rồi Đức Thế Tôn chế định điều học.

– Này các Tỳ Khưu, không nên thọ dụng thịt người, vị nào thọ dụng thì phạm tội Thullacaya (trọng tội). Này các Tỳ Khưu, không nên thọ dụng thịt khi chưa quán xét; vị nào thọ dụng thì phạm tội dukkaṭa (tác ác).

Có mười loại thịt mà vị Tỳ Khưu không nên thọ dụng, đó là:

– Thịt người, thịt voi, thịt ngựa, thịt chó nhà, thịt sư tử, thịt cọp, thịt beo, thịt gấu, thịt rắn và thịt chó sói.

– Không dùng thịt người, vì đồng loại không nên dùng thịt của nhau.

– Voi và ngựa là biểu tượng của đức vua, đức vua không hoan hỷ khi thấy vương quyền bị xúc phạm.

– Chó nhà là vật đáng ghê tởm, nên không nên dùng (vì người Ấn cổ xem chó là con vật đáng ghê tởm).

– Các vị Tỳ Khưu sống ở rừng dùng thịt sư tử, bị sư tử vồ lấy vì thân toát ra mùi sư tử lạ.

Tương tự như thế với các loại thịt: Thịt cọp, thịt beo, thịt gấu, thịt rắn và thịt chó sói.

Có thể có lập luận rằng:

“Trường hợp như bà Yasodharā hay nàng Suppiyā là hiếm có, không phải phần đông”.

Đúng vậy, đây là những trường hợp hy hữu. Nhưng dù là hy hữu thì vẫn có phải không?