WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Sự cho thọ Upasampadā cho nữ giới

Nữ Giới Và Sự Phục Hồi Tỳ Khưu Ni Theravāda

Biên soạn
Tỳ Khưu Chánh Minh

Chương III
Khôi Phục Tỳ Khưu Ni Theo Hệ Phái Nam Truyền

Các nhà ủng hộ việc phục hồi hội chúng Tỳ Khưu Ni theo truyền thống Theravāda cho rằng:

Có thể quay lại bước ban đầu khi nữ giới được Đức Thế Tôn cho phép xuất gia trong Pháp Luật này bằng cách “Chư Tăng cho nữ giới xuất gia”, như lúc ban đầu Đức Thế Tôn cho phép Tỳ Khưu được cho phép xuất gia Tỳ Khưu Ni.

Các vị Lập luận rằng: “Đức Phật chưa huỷ bỏ điều này”; nên giờ đây có thể quay lại phương án này.

Cho thọ giới Tỳ Khưu Ni theo truyền thống Theravāda bằng cách phối hợp giữa Tỳ Khưu Theravāda và Tỳ Khưu Ni Hệ phái khác.

Các vị Trì Luật có quan điểm: “Những gì được Đức Thế Tôn chế định rồi được phụ chế định, điều phụ chế định sau cùng có hiệu lực, điều được chế định trước đó mất hiệu lực” như đã trình bày ở trên.

Ở giai đoạn đầu các Tỳ Khưu được phép cho xuất gia Tỳ Khưu Ni, đồng thời được phép hỏi pháp chướng ngại các cô ni tập sự.

Ở bước thứ hai tức là khi Đức Thế Tôn chế định thêm (anupaññatti). Các vị Tỳ Khưu không còn được phép cho nữ giới xuất gia Tỳ Khưu Ni không qua giai đoạn Sikkhāmāna (cô ni tập sự), luôn cả quyền được hỏi hai mươi bốn pháp chứng ngại của cô ni tập sự, cũng không còn hiệu lực. Và quyền hỏi hai mươi bốn pháp chướng ngại nơi cô ni tập sự được trao lại cho các Tỳ Khưu Ni.

Và Tỳ Khưu Ni được phép cho cô ni tập sự tu lên bậc trên (quyền này trước đây thuộc hội chúng Tỳ Khưu, giờ không còn hiệu lực). Và hội chúng Tỳ Khưu được phép cho vị Tỳ Khưu Ni tu lên bậc trên một phía, sau khi được trong sạch ở hội chúng Tỳ Khưu Ni, rồi được tu lên ở hội chúng Tỳ Khưu (Cullavagga, bhikkhunīkhandhakaṃ-59).

Có thể hiểu: Đức Thế Tôn cho phép hội chúng Tỳ Khưu cho cô Tỳ Khưu Ni tu lên bậc trên từ một phía được trong sạch để duy trì tám trọng pháp mà Tỳ Khưu Ni phải giữ gìn trọn đời, đó là điều thứ sáu:

“Cô ni tập sự (Sikkhāmānā) đã thực hành sự học tập về sáu pháp trong hai năm, nên tầm cầu sự tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng. Đây là pháp cần được trọng vọng, cung kỉnh, tôn kính, cúng dường và không được vi phạm cho đến trọn đời”.

Tám trọng pháp này nhằm mục đích ngăn ngừa tai hại gây ra từ nữ nhân, như lời dạy của Đức Thế Tôn.

“Này Ānanda, cũng giống như người đàn ông, chính vì phòng xa nên củng cố bờ đê của cái hồ lớn để không có sự tràn ra của nước; này Ānanda, cũng tương tự như thế, tám trọng pháp do ta chính vì phòng xa đã quy định cho các Tỳ Khưu Ni cho đến trọn đời không được vi phạm.”

Đức Thế Tôn cho phép hội chúng Tỳ Khưu cho cô Tỳ Khưu Ni đã thọ giới một phía, được thọ giới lần thứ hai, ngầm dạy các vị Tỳ Khưu Ni rằng: Các vị Tỳ Khưu Ni đã tác thành giới phẩm của các người, hãy kính trọng Tăng chúng.

Tuy vậy, vẫn có những Tỳ Khưu Ni vượt qua ranh giới đó, như:

1. Tỳ Khưu Ni Thulla Tissā.

Bà thấy Trưởng lão Mahā Kassapa thuyết pháp trước sự hiện diện của Ngài Ānanda đến các Tỳ Khưu Ni. Bà không hoan hỷ: “Làm sao Tôn giả Mahā Kassapa trước mặt Vedehamuni Ānanda lại nghĩ đến thuyết pháp; ví như người bán kim lại nghĩ có thể bán kim cho người làm kim”.

Ngài Ānanda xin Trưởng lão Mahā Kassapa bỏ qua cho bà Thulla Tissā. Không lâu sau đó, bà Thulla Tissā đã lìa bỏ đời sống phạm hạnh1Tương Ưng Kinh, Thiên Nhân Duyên, Tương Ưng Kassapa, kinh Trú Xứ, S.ii, 215.

2. Tỳ Khưu Ni Thulla Nandā.

Bà rất quý mến Ngài Ānanda, khi nghe Trưởng lão Mahā Kassapa gọi Ngài Ānanda là “đứa trẻ không biết tự lượng”, bà bất mãn và phỉ báng Trưởng lão Mahā Kassapa là ngạo mạn. Được biết, sau đó bà Tỳ Khưu Ni Thulla Nandā đã rời bỏ Ni đoàn2S.ii, 219.

Một câu hỏi do các vị Trưởng lão ủng hộ việc khôi phục hội chúng Tỳ Khưu Ni theo truyền thống Theravāda đặt ra là: Làm thế nào khôi phục Hội chúng Tỳ Khưu Ni này? Và các vị chọn một trong hai phương án được nêu trên.

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta có thể khảo sát lại Giới Luật của Tỳ Khưu Ni so với giới Luật của Tỳ Khưu.

Tỳ khưu Indacanda trong bộ Phân tích Giới Tỳ Khưu Ni (Bhikkhunīvibhaṅga) (dịch từ bản Anh ngữ) trong phần giới thiệu có nhận xét như sau: (tóm lược)

1. Giới của Tỳ Khưu Ni là 311 giới, giới của Tỳ Khưu là 227 giới

2. Tội của Tỳ Khưu thường được giảm nhẹ so với các Tỳ Khưu Ni trong khi cả hai thực hiện hành động phạm tội giống nhau. Ví dụ như việc che giấu tội pārājika (bất cộng trụ) của vị khác; Tỳ Khưu chỉ phạm ưng đối trị (pācittiya) điều 64; còn Tỳ Khưu Ni phạm pārājika điều 2.

Hoặc vị xu hướng theo tà kiến và vẫn không bị dứt bỏ sau khi được nhắc nhở, Tỳ Khưu phạm pācittiya điều 68; còn Tỳ Khưu Ni phạm pārājika điều 3.

3. Khi phạm tội Saṅghādisesa (Tăng tàn), vị Tỳ Khưu chỉ hành 6 đêm mānatta ở hội chúng Tăng, còn Tỳ Khưu Ni phải thực hành mānatta nửa tháng ở cả hai hội chúng.

4. Giới Saṅghādisesa (Tăng tàn) của Tỳ Khưu Ni là 17 giới, của Tỳ Khưu chỉ 13 giới.

5. Về việc cho xuất gia, vị Tỳ Khưu Ni là Tế độ sư phải có 12 năm thâm niên, trong khi vị Tỳ Khưu Tế độ sư chỉ có mười năm thâm niên.

Tỳ Khưu Ni Tế độ sư mỗi năm chỉ tế độ một cô Ni tập sự tu lên bậc trên; còn vị Tỳ Khưu Tế độ sư không có giới hạn.

Còn về cô Ni tập sự (Sikkhāmāna) lại có phần phức tạp hơn, sẽ đề cập đến phần Sikkhāmāna.

Sau khi khảo sát và so sánh, chúng ta thấy Đức Thế Tôn nghiêm khắc với Tỳ Khưu Ni so với Tỳ Khưu. Không như dịch phẩm tự hào về hội chúng Tỳ Khưu Ni, như ở trang 36 của dịch phẩm có ghi: “Sau khi Tôn giả Ānanda thuyết phục (theo Tiểu Phẩm). Ngài (chỉ Đức Thế Tôn) cuối cùng đã thành lập hội chúng Tỳ Khưu Ni và toàn tâm ủng hộ nó”. Có thật Đức Thế Tôn “toàn tâm ủng hộ” hay Ngài cố gắng ngăn chặn những tai hại xuất phát từ những Tỳ Khưu Ni phóng túng, bằng cách hạn chế sự phát triển, điển hình như điều học pācittiya (ưng đối trị) số 82 và 83.

Tiếp độ hàng năm Pācittiya (82)

Khi Đức Thế Tôn ngự nơi Tự viện Jetavana của ông Anāthapiṇḍika. Vào lúc bấy giờ, các Tỳ Khưu Ni tiếp độ (Vuṭṭhāpenti) hàng năm. Chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Dân chúng phàn nàn, phê phán chê bai rằng:

– Tại sao các Tỳ Khưu Ni lại tiếp độ hàng năm, chiếm chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng.

Việc này được các Tỳ Khưu trình lên Đức Phật, do việc này, Đức Thế Tôn chế định học giới: “Vị Tỳ Khưu Ni nào tiếp độ hàng năm, phạm pācittiya”.

Hàng năm (anuvassa) là mỗi năm.

Tiếp độ (vutthā peyyā) là cho tu lên bậc trên.

Tiếp độ hai người trong một năm Pācittiya (83)

Duyên khởi ở thành Sāvatthi. Vào lúc bấy giờ các Tỳ Khưu Ni tiếp độ hai người trong một năm.

Như thế ấy, chỗ trú ngụ không đủ đáp ứng. Tương tự như thế, dân chúng phàn nàn, phê phán, chê bai. Do duyên sự ấy, Đức Thế Tôn chế định điều học: “Vị Tỳ Khưu Ni nào tiếp độ hai người trong một năm thì phạm tội pācittiya”.

Như vậy cho thấy: Một Tỳ Khưu Ni có 12 năm thâm niên, mỗi năm chỉ tế độ một nữ đệ tử. Đức Thế Tôn đã giới hạn sự phát triển Ni chúng như vậy, làm sao gọi là: “Đức Thế Tôn toàn tâm ủng hộ “, đó chỉ là hư vọng, ảo tưởng, không có giá trị.

Chúng ta có thể thấy rằng: Chỉ một duyên sự nhỏ là “không đủ chỗ trú”, Đức Thế Tôn đã hạn chế sự phát triển Ni chúng, ví như người chỉ thấy một lỗ nhỏ của bờ đê, đã huy động nhiều người đến sửa lại con đê cho chắc chắn. Cũng vậy, Đức Thế Tôn thấy tai vạ do nữ nhân tạo ra, nên Ngài ngăn ngừa từ xa.

Một chứng cứ khác cho thấy sự nghiêm khắc của Đức Thế Tôn đối với Tỳ Khưu Ni, để ban chế sự phát triển của họ:

Trong tập phân tích giới Tỳ Khưu Ni, chương Ưng Đối Trị (pācittiya), phần Thiếu nữ (Kumārībhūtavaggo), Điều học số 74: Tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm thâm niên.

Có những Tỳ Khưu Ni chưa đủ mười hai năm thâm niên đã cho giới tử Ni thọ giới Tỳ Khưu Ni.

Nhân việc này Đức Thế Tôn chế định học giới:

“Vị Tỳ Khưu Ni nào tiếp độ khi chưa đủ mười hai năm (thâm niên) thì phạm pācittiya”.

Điều học số 75: Tuy có được 12 năm thâm niên, cần phải được hội chúng chấp thuận cho phép được tiếp độ, mới được cho giới tử Ni xuất gia Tỳ Khưu Ni.

Trong khi đó, các Tỳ Khưu chỉ cần 10 năm thâm niên là được phép cho xuất gia Tỳ Khưu.

Lại nữa, trong Tiểu Phẩm (Cullavagga), chương Tỳ Khưu Ni, Tụng phẩm thứ ba (Tatiya bhāṇavāra) ghi nhận:

(71) Vào lúc bấy giờ, có vị Tỳ Khưu Ni nọ, sau khi xả bỏ sự học tập đã hoàn tục. Cô ấy đã quay trở lại và thỉnh cầu các Tỳ Khưu Ni sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên Đức Thế Tôn:

– Này các Tỳ Khưu, không có việc xả bỏ sự học tập đối với Tỳ Khưu Ni; chính khi cô ấy hoàn tục thì chính khi ấy cô ấy không còn là Tỳ Khưu Ni nữa.

(Điều này khác với Tỳ Khưu, Tỳ Khưu sau khi xả bỏ sự học tập trở thành cư sĩ, sau đó nam cư sĩ ấy có thể trở lại thọ giới tu lên bậc trên. Còn đối với Tỳ Khưu Ni xem như hoàn tục vĩnh viễn).

Vào lúc bấy giờ, có một vị Tỳ Khưu Ni nọ, vấn mang y casa đã chuyển sang (tu tập ở) lãnh vực ngoại đạo. Cô ấy đã quay trở lại và thỉnh cầu các Tỳ Khưu Ni sự tu lên bậc trên, các vị đã trình sự việc ấy lên Đức Thế Tôn.

– Này các Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni nào mang y casa chuyển sang (tu tập ở) lãnh vực ngoại đạo; khi cô ấy quay trở lại thì không nên cho tu lên bậc trên nữa.3Ngài BuddhaGhosa giải thích rằng: “Ngay cả việc xuất gia làm Sa di ni cũng không được”.

Trong bộ Cullavagga (Tiểu Phẩm) của Tạng Luật, chương IX. Đình Chỉ Giới Bổn Pātimokkha (pātimokkhatthapanakkhandhakaṃ), Đức Thế Tôn dạy:

“Này các Tỳ Khưu, cũng giống như biển cả có pháp ổn định, không tràn qua khỏi bờ, này các Tỳ Khưu, tương tự như thế, điều học nào đã được ta quy định cho các đệ tử của ta, các đệ tử của ta không vượt qua điều học ấy dù là nguyên nhân mạng sống” và “không nên quy định điều không được quy định hoặc không nên huỷ bỏ điều đã được quy định. Nên thọ trì và thực hành các điều học như đã được quy định”

(Luật phân tích giới Tỳ Khưu; giới Nissaggiya điều 15). Các vị Trưởng lão thông luật, trì luật, tuân thủ lời dạy của Đức Thế Tôn; không vượt qua điều đã được Đức Thế Tôn quy định.

Thực hành như thế lại bị xem là vi phạm nguyên tắc chỉ đạo của Luật, là ngăn trở sự thực hiện của chính Đức Phật; như trong dịch phẩm trang 36 ghi nhận:

“Từ quan điểm này ngăn chặn việc bổ sung của quyết định đó chỉ vì kỹ thuật hợp thức hoá chính là ngăn trở sự thực hiện ý định của chính Đức Phật”.

“Quan điểm này” là quan điểm gì? Trong bản dịch phẩm trang 36 có nêu ra:

“Đối với lý thuyết bảo thủ, những giả định căn bản là:

– Rằng lễ thọ giới kép là có tác ý áp dụng cho tất cả mọi hoàn cảnh và không cho phép bất cứ một ngoại lệ nào hay sửa đổi nào theo với các điều kiện.

– Rằng chỉ có đạo Phật Nguyên thuỷ là gìn giữ được Tạng Luật đúng theo truyền thống.

Vậy: Điều thứ 1 có sai với tinh thần “không nên quy định điều không được quy đinh, không nên huỷ bỏ điều đã được quy định” hay không?
“Còn sửa đổi theo với các điều kiện” của các vị nêu ra thì có đúng với câu Phật ngôn trên hay không?

Còn điều thứ 2. Có Hệ phái Phật giáo nào cho rằng: Tạng Luật mà mình thọ trì không đúng theo truyền thống được Đức Phật chế định không?

Những đoạn văn trong bản dịch phẩm nêu trên, cho tôi có cảm nghĩ: “Có vị Phật Chánh Giác xuất hiện”, vì chỉ có Bậc Chánh Giác mới có quyền phụ chế định điều mà Ngài đã chế định.

Và: “Những ai không đồng tình với các vị, xem như là người ngăn trở chính ý định của Đức Phật.

Tôi muốn hỏi: “Có phải các vị hiểu rõ ý Đức Phật?”.

Các vị cho rằng: Phá vỡ hai điều căn bản giả định của các vị tuân thủ theo luật, bằng cách thực hiện một trong hai cách:

– Trong hoàn cảnh riêng biệt Tăng đoàn có quyền trở lại làm lễ thọ giới đơn cho Tỳ Khưu Ni.

– Các Tỳ Khưu Nguyên thuỷ có thể kết hợp với các Tỳ Khưu Ni Hệ phái khác cho xuất gia Tỳ Khưu Ni.

(Dịch phẩm, trang 37)

Nếu tin Đức Phật là bậc Chánh Giác thì tin rằng Ngài thấu rõ mọi việc, chắc chắn Đức Thế Tôn biết rõ vào thế kỷ thứ 10 sau Tây lịch, Tỳ Khưu Ni sẽ mất. Nếu Ngài muốn tái lập Hội chúng Tỳ Khưu Ni, chắc chắn Ngài sẽ di ngôn. Như Đức Thế Tôn di ngôn phạt Tỳ Khưu Channa hình phạt Brahmadaṇḍa (Phạm đàn)4Trường Bộ Kinh, bài kinh 16 (DN16).

Ở đây cần lưu ý một điều: Tôn chỉ của Đức Thế Tôn là sự diệt khổ; Đức Thế Tôn thuyết giảng Giáo Pháp nhằm mục đích thoát ra cái khổ sinh tử luân hồi; như Đức Thế Tôn dạy:

“Này Ānurādha, trước đây và hiện tại, Ta chỉ nói lên về khổ và sự diệt khổ”5Tương Ưng Kinh, Thiên Sáu Xứ, Tương Ưng Không Thuyết, kinh Anurādha, S.iv, 380.
“Pubbe cāhaṃ, anurādha, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi dukkhassa ca nirodha’n ti.

Hay trong Trung Bộ Kinh I, kinh Ví Dụ Con Rắn (Alagaddūpamasuttaṃ)6Trung Bộ Kinh, Bài Kinh Số 22 (M.i, 130)(MN22), Đức Thế Tôn dạy:

“Chư Tỳ Khưu, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ.”

Những học giới hay Luật của Đức Thế Tôn chế định cho đệ tử cũng không ngoài mục đích này, như trong Tăng Chi Kinh, Chương Ba Pháp, Kinh Bản Đọc Tụng7A.i, 232 (Paṭhamasikkhāsuttaṃ) (AN96)8A.i, 232.

– Này các Tỳ Khưu, bản tụng đọc này gồm hơn 150 học giới… tất cả được thâu nhiếp thành ba học giới này. Thế nào là ba?

+ Adhisīlasikkhā: Tăng thượng giới học.

+ Adhicittasikkhā: Tăng thượng định học.

+ Adhipaññāsikkhā: Tăng thượng tuệ học.

Có Tỳ Khưu đối với các giới luật hành trì toàn phần, đối với định hành trì một phần, đối với tuệ hành trì một phần.

Có Tỳ Khưu đối với giới luật hành trì toàn phần, đối với định hành trì toàn phần, đối với tuệ hành trì một phần.

Có Tỳ Khưu đối với các giới luật hành trì toàn phần, đối với định hành trì toàn phần, đối với tuệ hành trì toàn phần.

Bài kinh này cho thấy giới luật được các vị Tỳ Khưu hành trì toàn phần.

Chúng ta hãy trở lại lời dạy của Đức Thế Tôn đối với Ngài Ānanda sau khi chấp thuận cho nữ giới được xuất gia trong Pháp Luật này.

“Này Ānanda, nếu nữ nhân không đạt được sự xuất gia rời nhà, sống không nhà trong Pháp Luật đã được Đức Như Lai công bố, này Ānanda, phạm hạnh sẽ được tồn tại lâu dài, Thánh pháp (Saddhamma) có thể tồn tại một ngàn năm. Này Ānanda, bởi vì nữ nhân đã xuất gia rời nhà, sống không nhà trong Pháp Luật đã được đức Như Lai công bố, này Ānanda, giờ đây Phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài, này Ānanda, giờ đây Thánh pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm.”

Phạm hạnh (Brahmacariya) là chỉ cho sự không quan hệ tình dục. Ngoài ra, những điều kiện kích dục tính cũng được xem là phi phạm hạnh (abrahmariya), tuy không nặng nề như sự quan hệ tình dục; như: điều Tăng tàn (Saṅghādisesa) của Tỳ Khưu.

Điều 1: Cố ý làm xuất tinh.

Điều 2: Xúc chạm cơ thể với người nữ.

Điều 3: Nói lời dâm dục với người nữ.

Điều 4: Ca ngợi sự hầu hạ tình dục.

Còn đối với Tỳ Khưu Ni thì nghiêm khắc hơn.

Điều 1: Tỳ Khưu Ni bị nhiễm dục vọng ưng thuận cho người nam ve vuốt từ xương đòn ở cổ trở xuống, từ đầu gối trở lên; hoặc chính vị Tỳ Khưu Ni thực hiện hành động ấy, phạm vào tội Pārājika (Trục xuất).

Điều 4: Vị Tỳ Khưu Ni nào nhiễm dục vọng thích thú sự nắm lấy cánh tay của người nam nhiễm dục vọng hoặc thích thú sự nắm lấy chéo áo choàng (của người nam) hoặc đứng chung, hoặc trò chuyện, hoặc đi đến nơi hẹn hò, hoặc thích thú sự viếng thăm của người nam, hoặc đi vào nơi che khuất, hoặc kề sát cơ thể nhằm mục đích ấy là nhằm mục đích của việc thực hiện điều không tốt đẹp ấy; vị Ni này cũng là vị phạm tội pārājika (trục xuất), không được cộng trú, là người nữ liên quan tám sự việc”.

Sớ giải Tạng Luật giải thích Chánh pháp (Saddhamma) như sau:

“Chánh Pháp tồn tại là chỉ cho ba loại chánh pháp: chánh pháp học tập, chánh pháp thực hành và chánh pháp thành tựu”9Vin A.i, 125.
“Saddhammaṭṭhiyāti tividho saddhammo: pariyattisaddhammo; paṭipattisaddhammo, adhigama saddhammoti.”

Chánh pháp (Saddhamma) ở đây là chỉ cho pháp thành, là pháp được thành tựu (chỉ cho Thánh quả).

Sự chứng đắc Thánh quả này không hiển lộ đến phàm nhân.

Và Ngài Buddhaghosa trong tập Samantapasādikā giải thích:

“Nói đến 1000 năm là đề cập đến sự diệt tận mọi ô nhiễm, thành tựu A-La-Hán tuệ phân tích ở ngàn năm đầu (từ năm thứ nhất đến năm thứ 1000).

Từ đó về sau là 1000 năm (từ năm 1001 đến 2000) là sự thành tựu A-La-Hán Lạc quán (Arahanta sukhavipassanā)

Ngàn năm thứ ba (từ năm 2001 đến năm 3000) là sự thành tựu Thánh quả Bất lai.

Ngàn năm thứ tư (từ năm 3001 đến năm 4000) là sự thành tựu Thánh quả Nhất lai.

Ngàn năm thứ năm (từ năm 4001 đến năm 5000) là sự thành tựu Thánh quả Dự Lưu.

Chánh pháp (Saddhamma) ở đây Đức Thế Tôn chỉ cho sự thành tựu Thánh quả A-La-Hán.

Như vậy, sau hai ngàn năm chỉ còn sự chứng đắc cao nhất là Thánh quả Bất lai, (Nếu nữ nhân xuất gia trong Giáo Pháp này, pháp thành (paṭivedha) là chứng đắc A-La-Hán quả giảm mất phân nửa, là sau một ngàn năm, chỉ còn lại bậc Thánh A Na Hàm), do đó việc nữ nhân có xuất gia trong Pháp Luật này không còn là vấn đề quan trọng.

Đức Thế Tôn chấp nhận cho nữ giới xuất gia trong Pháp Luật này vì tâm bi mẫn với chúng sanh như đã trình bày ở trên. Bậc A-La-Hán ở phẩm mạo tại gia dù là nam hay nữ sẽ viên tịch trong ngày ấy; nam đã được xuất gia trong Giáo Pháp này, còn nữ giới chưa được xuất gia thành tựu A-La-Hán phải viên tịch ngay trong ngày; nên Đức Thế Tôn chấp thuận cho nữ giới xuất gia trong Giáo Pháp này là như vậy. Và thế là thời gian có thể thành tựu Thánh quả được rút ngắn lại chỉ còn năm trăm năm, do vậy phẩm vị Tỳ Khưu Ni không còn thiết yếu cần phải khôi phục, nên Đức Thế Tôn không có di ngôn khôi phục hội chúng Tỳ Khưu Ni.

Trong bản dịch phẩm trang 20 có ghi: “Có rất ít chứng cớ về sự cho phép phụ nữ xuất gia đóng góp vào việc làm giảm tuổi thọ của Giáo Pháp…”

Khi phát biểu như thế (người phát biểu) có hai sự thất thố:

1. Cho rằng Đức Thế Tôn nói sai, là bác bỏ lời dạy của Đức Thế Tôn.

2. Không nắm được ý nghĩa chữ Saddhamma (Chánh Pháp) được Đức Thế Tôn dùng để chỉ cho pháp thành, không phải là pháp học. Mà sự thành tựu Thánh quả phàm nhân không thể biết, nên có ý kiến như vậy.

Trong tập Cullavagga (Tiểu Phẩm), chương I. Đình chỉ giới bổn Pātimokkha, Đức Thế Tôn dạy:

“Này các Tỳ Khưu, sự việc cho dù nhiều vị Tỳ Khưu Vô dư Níp Bàn trong cảnh giới Níp Bàn không còn dư sót, nhưng không vì điều ấy mà cảnh giới Níp Bàn được xem là vơi đi hay tràn đầy”.

Thật vậy, bậc Thánh bậc thấp không thể biết rõ bậc Thánh bậc cao, như trong Trường Bộ Kinh III, kinh Tự Hoan Hỷ (Sampasādaniyasutta) (DN28)10D.iii, 99:

Đức Thế Tôn hỏi Ngài Sāriputta:

“Này Sāriputta, có phải ngươi đã được biết trong hiện tại Ta là vị A-La-Hán Chánh Đẳng Giác, với tâm của ngươi biết được tâm của Thế Tôn: Giới Đức Thế Tôn là như vầy, Pháp là như vầy… trí tuệ là như vầy… giải thoát chư vị Thế Tôn là như vậy?

– Bạch Thế Tôn, không.

Và phàm nhân không thể biết rõ bậc Thánh nhân, cũng không thể biết rõ phàm nhân. Bậc Thánh có thể biết rõ bậc Thánh, có thể biết rõ phàm nhân.

Do vậy, phàm nhân làm sao biết được bậc Thánh chứng đắc hay phàm nhân không chứng đắc để xác định thời gian chứng Thánh quả của các bậc Thánh. Đồng thời điều biết rõ thời gian chứng Thánh quả của người có duyên lành là lãnh vực của bậc Chánh Giác, như Đức Phật Padumuttara thọ ký cho những vị Thánh Đại đệ tử cách hiền kiếp này trở về trước 100 ngàn kiếp Trái đất.

Cũng trong dịch phẩm ở trang 20 lại càng đi xa hơn, khi phát biểu:

“Đoạn kinh văn đó có thể gợi ý rằng, lý do để Đức Phật lưỡng lự (chữ của dịch bản) là liên hệ đến sự gần gũi tiếp xúc giữa Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni. Có thể đóng góp vào việc những tình cảm thân mật nảy sinh giữa hai bên và điều này dẫn đến sự kiện là nhiều người muốn xả y…”

Quả thật, nói như vậy chẳng khác nào dùng trí chim se sẻ để hiểu trí Kim xí điểu vương. Đức Thế Tôn chẳng quan tâm đến điều ấy; Ngài đã chế định học giới cho các Tỳ Khưu và Tỳ Khưu Ni rồi, vi phạm là theo luật hành xử. Không cần gì đến Tỳ Khưu Ni chỉ nữ nhân bên ngoài cũng quyến rũ các Tỳ Khưu xả y trở về với đời sống thế tục.

Có lần Tôn giả Ānanda đi du hành ở Dakkhināgiri cùng đại chúng Tỳ Khưu.

Lúc bấy giờ có khoảng 30 Tỳ Khưu đệ tử của Tôn giả Ānanda, phần lớn còn trẻ tuổi đã từ bỏ sự tu học, và hoàn tục11Tương Ưng Kinh, Tương Ưng Kassapa, Kinh Y Áo, S.ii, 217.

Đức Thế Tôn chỉ quan tâm tìm kiếm người hữu duyên nên tế độ mà thôi. Đó là một trong năm phận sự hằng ngày của Đức Thế Tôn12AA.i, 64-67.

Trong câu:

“Này Ānanda, giờ đây chánh pháp (Saddhamma) sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm”.

Chánh pháp ở đây, Đức Thế Tôn chỉ cho pháp thành là Thánh quả A-La-Hán; không phải là pháp học (pariyatti saddhamma). Do hiểu sai về ý nghĩa chữ Saddhamma này, dịch phẩm đã phạm sai lầm nghiêm trọng là “bác bỏ lời tiên đoán của Đức Thế Tôn”, đồng nghĩa “không còn tin Đức Thế Tôn là bậc Chánh Giác”.

Cũng trong dịch phẩm, trang 20, có ghi:

“Nhưng lịch sử ghi nhận rằng điều này đã không xảy ra trong thời kỳ Phật giáo tồn tại tại Ấn Độ chắc chắn là không vào khoảng thời gian tiên đoán điều xấu (thế kỷ thứ nhất sau công nguyên)”.

Đoạn kinh văn trên đã nói lên “sự bất tín” lời dạy Đức Thế Tôn.

“Không cung kính lời giáo giới (appadakkhinaggāhino anusāsaniṃ)” là nguyên nhân đưa đến Diệu Pháp (saddhamma) hỗn loạn và biến mất13Tăng Chi Kinh, Chương Bốn Pháp, phẩm Các Căn, kinh Luật của bậc Thiện Thệ (Sugatavinayasuttaṃ) A.ii, 147.

Chữ Saddhamma (diệu pháp) ở đây chỉ cho pháp học.


Ghi chú:

  • 1
    Tương Ưng Kinh, Thiên Nhân Duyên, Tương Ưng Kassapa, kinh Trú Xứ, S.ii, 215
  • 2
    S.ii, 219
  • 3
    Ngài BuddhaGhosa giải thích rằng: “Ngay cả việc xuất gia làm Sa di ni cũng không được”.
  • 4
    Trường Bộ Kinh, bài kinh 16
  • 5
    Tương Ưng Kinh, Thiên Sáu Xứ, Tương Ưng Không Thuyết, kinh Anurādha, S.iv, 380
  • 6
    Trung Bộ Kinh, Bài Kinh Số 22 (M.i, 130)
  • 7
    A.i, 232
  • 8
    A.i, 232
  • 9
    Vin A.i, 125
  • 10
    D.iii, 99
  • 11
    Tương Ưng Kinh, Tương Ưng Kassapa, Kinh Y Áo, S.ii, 217
  • 12
    AA.i, 64-67
  • 13
    Tăng Chi Kinh, Chương Bốn Pháp, phẩm Các Căn, kinh Luật của bậc Thiện Thệ (Sugatavinayasuttaṃ) A.ii, 147