WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Những Tính Chất Của Phước Thiện Bố Thí

Tìm Hiểu Phước Thiện Bố Thí
Dānakusala

Soạn giả
Tỳ Khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

(Aggamahāpaṇdita)

Tính Chất Của Phước Thiện Bố Thí

Bố thí có những tính chất như sau:

Pariccāgalakkhaṇa: Phước thiện bố thí có trạng thái đem tiền của, sự hiểu biết của mình ban cho người khác, chúng sinh khác.

Lobhaviddhaṃsanarasa: Phước thiện bố thí có phận sự diệt tham tâm keo kiệt, bủn xỉn trong tiền của, trong sự hiểu biết của mình.

Bhavibhavasampattipaccuppaṭṭhāna: Phước thiện bố thí có quả báu đầy đủ trong kiếp sống hiện tại và hỗ trợ cho pháp giải thoát khổ là kết quả hiện hữu.

Saddheyyapadaṭṭhānaṃ: Đức tin trong sạch nơi bậc thọ thí đáng tin là nguyên nhân gần của phước thiện bố thí.

Paṭikkhepadhamma: Pháp nghịch với phước thiện bố thí đó là tham tâm (lobhacitta).

Anuññātadhamma: Pháp hỗ trợ giúp cơ hội tạo phước thiện bố thí đó là tâm vô tham (alobhacitta).

Quả báu của phước thiện bố thí vật thực

Trong kinh Bhojanadānasutta1Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, Bhojanadānasutta. Đức Phật dạy:

Thí chủ tạo phước thiện bố thí vật thực gọi là bố thí 5 pháp đến cho người thọ thí.

Bố thí sự sống lâu: Nhờ dùng vật thực nên duy trì được sinh mạng.

Bố thí sắc đẹp: Nhờ dùng vật thực nên mặt mày tươi tỉnh, sắc thân hồng hào xinh đẹp.

Bố thí sự an lạc: Nhờ dùng vật thực nên thân tâm có được sự an lạc.

Bố thí sức mạnh: Nhờ dùng vật thực nên có được sức mạnh của thân, tâm.

Bố thí trí tuệ: Nhờ dùng vật thực nên tâm được an tịnh, trí tuệ sáng suốt.

Khi thí chủ bố thí sự sống lâu rồi thì thí chủ sẽ có được tuổi thọ sống lâu trong cõi người và tuổi thọ trong cõi trời dục giới.

Khi thí chủ bố thí sắc đẹp rồi thì thí chủ sẽ có được sắc đẹp trong cõi người và sắc đẹp trong cõi trời dục giới.

Khi thí chủ bố thí sự an lạc rồi thì thí chủ sẽ có được thân tâm an lạc trong cõi người và an lạc trong cõi trời dục giới.

Khi thí chủ bố thí sức mạnh rồi thì thí chủ sẽ có được sức mạnh của thân tâm trong cõi người và sức mạnh của thân tâm trong cõi trời dục giới.

Khi thí chủ bố thí trí tuệ rồi thì thí chủ sẽ có được trí tuệ, có tài ứng đối nhanh, khiến cho người nghe kính phục.

Quả báu riêng biệt của mỗi vật thí

Mỗi vật thí có quả báu riêng biệt được gom nhặt từ trong Tam tạng2Vinayapiṭaka, Mahāvagga, phần Bhesajjakkhandhaka. như sau:

Phước thiện bố thí cơm nước được 10 quả báu

Được sống lâu.

Có sắc thân xinh đẹp.

Thân, tâm được an lạc.

Thân, tâm có sức mạnh.

Có định tâm mau lẹ.

Có trí tuệ sáng suốt.

Có nhiều bạn bè thân thiết.

Có đại thiện tâm dũng cảm.

Có cơm đầy đủ (không thiếu ăn).

Có nước uống đầy đủ.

Phước thiện bố thí cháo được 10 quả báu

Có sự sống lâu.

Có sắc thân xinh đẹp.

Thân, tâm được an lạc.

Thân, tâm có sức mạnh.

Có trí tuệ nhanh nhẹn.

Giảm sự đói.

Giảm sự khát.

Làm cho chất gió lưu thông.

Rửa đường ruột.

Tiêu hóa vật thực.

Phước thiện bố thí nước được 10 quả báu

Có sắc thân sạch sẽ, sáng sủa.

Có thân, tâm nhẹ nhàng, nhanh nhẹn.

Có nhiều bạn bè thân thiết.

Có tiếng tốt lan rộng khắp mọi nơi.

Không bị khát nước.

Có tuổi thọ sống lâu.

Có sắc thân xinh đẹp.

Có thân tâm an lạc.

Có thân tâm khoẻ mạnh.

Có trí tuệ sáng suốt.

Phước thiện bố thí thuốc trị bệnh được 10 quả báu

Có tuổi thọ sống lâu.

Có sắc thân xinh đẹp.

Thân, tâm được khoẻ mạnh.

Có nhiều trí tuệ.

Có nhiều bạn bè thân thiết.

Có ít khổ, được nhiều an lạc.

Có ít bệnh hoạn ốm đau.

Tránh khỏi mọi tai họa.

Ðược chư thiên nhân loại kính mến.

Thường được gần gũi với người thân yêu.

Trên đây trích quả báu của một số vật thí làm tiêu biểu, để hiểu rõ mỗi vật thí có quả báu riêng biệt của nó, cũng như mỗi loại giống có mỗi loại quả của chính nó. Tất cả mọi quả báu này nhiều hay ít, hoàn toàn tùy thuộc vào đại thiện tâm trong sạch của thí chủ và năng lực của ba thời kỳ tác ý thiện tâm pubbacetanā, muñcacetanā, aparacetanā của thí chủ.

Dhammika upāsakavatthu: Tích cận sự nam Dhammika

Ðối với những bậc thiện trí phàm nhân nào đã tạo mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, v.v… đến lúc lâm chung, những bậc thiện trí ấy tự lựa chọn cho mình một cõi giới nào trong 7 cõi thiện dục giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục giới.

Sau khi bậc thiện trí phàm nhân ấy chết, đại thiện nghiệp trong đại thiện tâm hợp với trí tuệ cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại quả tâm hợp với trí tuệ gọi là paṭisandhicitta: tái sinh tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau hóa sinh làm vị thiên nam tam nhân hoặc vị thiên nữ tam nhân trên cõi trời dục giới ấy như đã lựa chọn.

Trích dẫn tích Dhammika upāsakavatthu3Dhammapadaṭṭhakathā,Yamakavagga, Dhammika upāsikavatthu. trong bộ Chú giải Pháp cú.

Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại chùa Jetavana gần thành Sāvatthī, đề cập đến cận sự nam Dhammika được tóm lược như sau:

Trong kinh thành Sāvatthī, ông cận sự nam Dhammika là người cao quý nhất trong nhóm 500 cận sự nam. Ông có 7 người con trai và 7 người con gái đều là những người cận sự nam, cận sự nữ có đức tin trong sạch nơi Tam bảo: Đức Phật bảo, Đức Pháp bảo, Đức Tăng bảo. Trong tư thất của ông thường tạo phước thiện bố thí cúng dường như: cháo, vật thực, vật thực vào ngày rằm và cuối tháng, vật thực vào ngày giới hằng tháng, thỉnh chư tỳ khưu Tăng thọ thực tại nhà, vật thực cho chư tỳ khưu khách đến, vật thực cho chư tỳ khưu Tăng an cư nhập ba tháng hạ, v.v…

Toàn thể gia đình gồm cha mẹ và các con đều là những người hoan hỷ trong mọi phước thiện, gìn giữ giới hạnh trong sạch, cung kính lắng nghe thuyết pháp.

Một hôm, ông Dhammika bị lâm bệnh nặng sắp lâm chung, muốn nghe chư tỳ khưu tụng kinh, ông sai người thân đến hầu đảnh lễ Ðức Phật, kính xin Đức Phật cho phép 8 hoặc 14 vị tỳ khưu đến tụng kinh cho ông nghe.

Đức Phật cho phép chư tỳ khưu đến nhà ông. Sau khi thỉnh ngồi nơi đã sắp đặt sẵn quanh giường của ông, ông cận sự nam Dhammika chắp hai tay bạch rằng:

Kính bạch quý Ngài Trưởng lão, nay con sức tàn lực kiệt, cơ hội được chiêm ngưỡng quý Ngài là một điều rất hy hữu đối với con, kính thỉnh quý Ngài có tâm bi tế độ tụng cho con nghe một bài kinh.

Ngài Trưởng lão hỏi ông cận sự nam rằng:

Này cận sự nam Dhammika! Con muốn nghe bài kinh nào?

Kính bạch quý Ngài, con tha thiết cầu xin quý Ngài tụng cho con nghe bài kinh ‘Mahāsatipaṭṭhānasutta: kinh Ðại niệm xứ’ mà chư Phật thường thuyết giảng.

Chư tỳ khưu Tăng bắt đầu tụng bài kinh Mahāsati paṭṭhānasutta rằng:

“Ekāyano ayaṃ bhikkhave maggo sattānaṃ visuddhiyā …”

Ngay khi đang tụng bài kinh ấy, có 6 chiếc xe trời, mỗi chiếc có 1.000 con ngựa báu41.000 con ngựa báu này do chư thiên hóa ra làm phận sự kéo xe trời, không phải là con ngựa thuộc loài súc sinh. kéo được trang hoàng lộng lẫy từ 6 cõi trời dục giới đến xin đón rước ông cận sự nam Dhammika. Chư thiên ở mỗi cõi trời đều khẩn khoản mời ông rằng:

Amhākaṃ devalokaṃ nessāma! Amhākaṃ devalokaṃ nessāma! …

Chúng tôi xin rước Ngài lên cõi trời chúng tôi! Chúng tôi xin rước Ngài lên cõi trời chúng tôi!

Kính thưa Ngài, ví như cái nồi bằng đất cũ bị bể, rồi được đổi lấy cái nồi bằng vàng ròng. Cũng như vậy, bỏ thân người rồi hóa sinh làm vị thiên nam trên cõi trời dục giới.

Kính mời Ngài tái sinh lên cõi trời chúng tôi! Kính mời Ngài tái sinh lên cõi trời chúng tôi! Hưởng mọi sự an lạc!

Ông cận sự nam Dhammika nhìn thấy 6 chiếc xe trời và nghe tiếng thỉnh mời của các vị thiên nam, đó là đối tượng gatinimitta, ông không muốn những nhóm chư thiên ấy làm trở ngại việc nghe bài kinh bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta của ông, nên ông bảo rằng:

Āgametha! Āgametha!

Xin quý Ngài chờ một lát! Xin quý Ngài chờ một lát!

Chư tỳ khưu Tăng đang tụng kinh, nghe ông nói như vậy, nên ngừng lại, bởi vì nghĩ rằng: “Ông đang nói với chúng ta.”

Cho nên, chư tỳ khưu Tăng ngừng lại, không tiếp tục tụng kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta nữa. Khi ấy, các người con của ông cận sự nam Dhammika nghĩ rằng:

Từ trước, cha của chúng ta hoan hỷ lắng nghe pháp không bao giờ biết đủ, chính cha đã cho thỉnh chư tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe, nhưng mà bây giờ, cha lại ngăn cản chư tỳ khưu không cho tụng kinh, tại sao như vậy?

Vì vậy, các con của ông cận sự nam Dhammika khóc.

Chư tỳ khưu bàn bạc với nhau rằng: “Bây giờ không hợp thời” nên chư tỳ khưu xin rời khỏi tư gia, trở về ngôi chùa Jetavana.

Ông cận sự nam Dhammika không nghe tiếng tụng kinh mà nghe tiếng khóc than của các con nên hỏi rằng:

Này các con! Tại sao các con khóc như vậy?

Thưa cha, chính cha đã cho thỉnh chư tỳ khưu đến tụng kinh cho cha nghe, rồi cũng chính cha lại ngăn cản chư tỳ khưu không cho tụng kinh nữa. Thấy như vậy, nên chúng con buồn mà khóc than. Thưa cha.

Ông cận sự nam Dhammika hỏi rằng:

Này các con! Quý Ngài Trưởng lão đi đâu rồi?

Thưa cha, quý Ngài Trưởng lão bàn bạc với nhau rằng: Bây giờ không hợp thời, nên quý Ngài Trưởng lão đã từ giã trở về chùa rồi.

Này các con! Cha không phải ngăn cản chư tỳ khưu tụng kinh cho cha nghe.

Thưa cha, nếu như vậy cha ngăn cản ai vậy?

Ông cận sự nam Dhammika giải thích cho các con hiểu rằng:

Có 6 chiếc xe trời từ 6 cõi trời dục giới trang hoàng lộng lẫy dừng trên hư không, chư thiên mỗi cõi trời đều khẩn khoản mời cha rằng:

Amhākaṃ devaloke abhirama! Amhākaṃ devaloke abhirama!

Kính mời Ngài hưởng sự an lạc trên cõi trời của chúng tôi! Kính mời Ngài hưởng sự an lạc trên cõi trời của chúng tôi!

Cha không muốn các chư thiên ấy quấy rầy làm trở ngại việc nghe bài kinh của cha, nên cha chỉ ngăn cản nhóm chư thiên ấy mà thôi.

Thưa cha, 6 chiếc xe trời ở đâu mà chúng con không thấy?

Ông cận sự nam Dhammika biết rõ đó là đối tượng gatinimitta (đối tượng hiện tượng cõi giới sẽ dẫn tái sinh kiếp sau) chỉ có một mình ông thấy được mà thôi, nên ông tìm cách để chứng minh cho các con tin có thật, nên ông cận sự nam Dhammika hỏi các con rằng:

Này các con! Vòng hoa dành cho cha có không?

Thưa cha, dạ, có vòng hoa.

Này các con! Trong 6 cõi trời dục giới, cõi trời nào

đáng được hài lòng hoan hỷ nhất?

Thưa cha, cõi trời Tusitā (Ðâu suất đà thiên) là cõi trời dục giới đáng hài lòng nhất, bởi vì cõi trời này là nơi tạm nghỉ của chư Đức Bồ tát, của Phật mẫu.

Ông cận sự nam Dhammika chọn cõi trời Tusitā là cõi giới sẽ tái sinh kiếp sau. Vì vậy, ông dạy các con của ông rằng:

Này các con! Các con nguyện rằng:

“Xin cho vòng hoa này đeo vào đầu xe từ cõi trời Tusitā ”, rồi các con ném vòng hoa ấy lên hư không.

Các con của ông làm theo lời chỉ dạy của ông, ném vòng hoa lên hư không, vòng hoa ấy tròng trên đầu chiếc xe đến từ cõi trời Tusitā.

Thật ra mọi người chỉ nhìn thấy vòng hoa ấy treo lơ lửng trên hư không mà không thể nhìn thấy chiếc xe trời được, bởi vì chiếc xe trời này thuộc về loại sắc vi tế nên mắt thường không thể nhìn thấy được (chỉ có thiên nhãn thông mới nhìn thấy được).

Ông cận sự nam hỏi các con rằng:

Này các con! Các con có nhìn thấy vòng hoa trên hư không hay không?

Thưa cha, chúng con đều nhìn thấy.

Ông cận sự nam Dhammika giải thích rằng:

Cái vòng hoa ấy đeo trên chiếc xe từ cõi trời Tusitā. Sau khi cha từ giã (chết) cõi người này, đại thiện nghiệp sẽ cho quả tái sinh hóa sinh làm vị thiên nam trên cõi trời Tusitā ấy.

Các con chớ có khổ tâm, nếu các con muốn tái sinh cùng cõi giới với cha thì các con phải là người có giới hạnh trong sạch, cố gắng tạo mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền, nghe pháp, v.v… như cha vậy.

Ông cận sự nam Dhammika khuyên răn dạy dỗ các con của ông xong, ông cận sự nam nằm yên có đại thiện tâm tỉnh táo có đối tượng gatinimitta là chiếc xe trời từ cõi trời Tusitā là đối tượng của cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) lúc lâm chung.

Sau khi Ông cận sự nam Dhammika chết, đại thiện nghiệp trong đại thiện tâm cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại quả tâm gọi là paṭisandhicitta: tái sinh tâm làm phận sự tái sinh kiếp sau hóa sinh làm vị thiên nam Dhammika trên cõi trời Tusitā mà ông đã lựa chọn như ý.

Vị thiên nam Dhammika có thân hình cao 3 gāvuta51 gāvuta có chiều dài khoảng 5.120,64 mét. , có hào quang sáng ngời, được trang sức những vàng ngọc quý giá, trong một lâu đài bằng ngọc ngà nguy nga tráng lệ lớn rộng 25 do tuần, có một ngàn thiên nữ xinh đẹp hầu hạ ngày đêm, hưởng mọi an lạc trong cõi trời ấy.

Khi chư tỳ khưu về đến chùa, Đức Phật truyền hỏi rằng:

Này chư tỳ khưu! Ông cận sự nam Dhammika có nghe trọn bài kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta hay không?

Kính bạch Đức Thế Tôn, ông cận sự nam Dhammika đang nằm nghe chúng con đang tụng bài kinh Mahā satipaṭṭhānasutta thì ông nói rằng:

“Xin quý Ngài chờ một lát!”

Nghe ông cận sự nam nói như vậy, chúng con ngừng tụng kinh. Khi ấy, các con của ông than khóc. Chúng con bàn bạc với nhau rằng:

“Bây giờ không phải lúc tụng kinh” nên chúng con đứng dậy trở về đây.

Nghe chư tỳ khưu bạch như vậy, Đức Phật truyền dạy rằng:

Này chư tỳ khưu! Ông cận sự nam Dhammika không phải nói với các con đâu. Thật ra khi ấy, chư thiên từ 6 cõi trời dục giới, mỗi cõi trời đem mỗi chiếc xe trời khẩn khoản mời ông tái sinh lên cõi trời của họ. Ông cận sự nam không muốn quý vị chư thiên quấy rầy, làm trở ngại việc nghe bài kinh của ông, nên ông cận sự nam nói ngăn cản các nhóm chư thiên ấy.

Kính bạch Đức Thế Tôn, nếu đúng như vậy thì sau khi ông cận sự nam Dhammika chết, đại thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi trời dục giới nào? Bạch Ngài.

Này chư tỳ khưu! Sau khi ông cận sự nam Dhammika chết, đại thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau hóa sinh làm vị thiên nam Dhammika trên cõi trời Tusitā (Đâu suất đà thiên) hưởng mọi an lạc trên cõi trời dục giới ấy.

Kính bạch Đức Thế Tôn, khi trong cõi người, ông cận sự nam Dhammika được hưởng sự an lạc trong gia đình bà con bè bạn. Sau khi chết, đại thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau hóa sinh làm vị thiên nam Dhammika cũng được hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời Tusitā (Đâu suất đà thiên) nữa.

Đức Phật dạy rằng:

Này chư tỳ khưu! Đúng vậy, người không có dể duôi quên mình, tạo mọi phước thiện, dù là người tại gia hoặc bậc xuất gia sống nơi nào cũng được sự an lạc.

Đức Phật thuyết bài kệ rằng:

Này chư tỳ khưu! Người đã tạo mọi phước thiện, hưởng quả an lạc trong kiếp hiện tại, sau khi chết hưởng quả an lạc trong kiếp vị lai; hưởng quả an lạc trong kiếp hiện tại và vô số kiếp vị lai.

Người đã tạo mọi đại thiện nghiệp, kiếp hiện tại thấy quả báu trong sạch của đại thiện nghiệp của mình vô cùng hoan hỷ. Sau khi chết, kiếp vị lai hưởng quả báu an lạc lại càng hoan hỷ mà thôi.

Tìm Hiểu Về Đối Tượng Lúc Lâm Chung

Tất cả mọi chúng sinh trong tam giới gồm có 31 cõi giới, trong bốn loài là thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh dù nhỏ bé như con kiến, dù to lớn như chư phạm thiên trên các tầng trời sắc giới phạm thiên, vô sắc giới phạm thiên, đến phút giây lâm chung cuối cùng đều có cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) là lộ trình tâm cuối cùng tử rồi sinh đối với mỗi kiếp chúng sinh còn có vô minh và tham ái.

Cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) cuối cùng này rất yếu, nên javanacitta: tác hành tâm chỉ có 5 sát na tâm, đặc biệt có 2 sát na tâm là:

Cuti đó là cuticitta: Tử tâm là quả tâm cuối cùng của kiếp hiện tại làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) 1 sát na tâm kết thúc kiếp hiện tại cũ, liền tiếp theo sau sát na tâm:

Paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái sinh tâm là quả tâm nào bắt đầu kiếp sau (kiếp hiện tại mới bắt đầu) sinh chỉ có 1 sát na tâm mà thôi, liền tiếp theo sau cũng chính quả tâm ấy chuyển biến trở thành bhavaṅga citta: hộ kiếp tâm làm phận sự hộ kiếp, bảo hộ giữ gìn kiếp chúng sinh ấy cho đến lúc lâm chung sắp chết.

Như vậy, kiếp hiện tại tử (chết), liền kiếp sau sinh chỉ có cách nhau 1 sát na tâm sinh rồi diệt mà thôi, không có khoảng thời gian chờ đợi.

Đối tượng của cận tử lộ trình tâm

Đối tượng của cận tử lộ trình tâm (maraṇāsanna vīthicitta) có 1 trong 3 loại đối tượng:

Kamma: Đối tượng nghiệp đó là thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Kammanimitta: Đối tượng hiện tượng tạo thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Gatinimitta: Đối tượng hiện tượng sẽ dắt dẫn tái sinh kiếp sau trong cõi thiện giới hoặc cõi ác giới.

Giảng giải kamma, kammanimitta, gatinimitta

Đối tượng kamma đó là đối tượng thiện nghiệp hoặc đối tượng ác nghiệp có cơ hội hiện rõ trong cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) như thế nào?

Kamma đó là cetanācetasika: Tác ý tâm sở.

Nếu tác ý tâm sở đồng sinh với thiện tâm gọi là thiện nghiệp.

Nếu tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm (ác tâm) gọi là bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Đối tượng thiện nghiệp và đối tượng bất thiện nghiệp (ác nghiệp) thuộc về đối tượng pháp (dhammā rammaṇa) chỉ hiện rõ trong ý thức tâm mà thôi.

Đối tượng kammanimitta: Đối tượng hiện tượng tạo thiện nghiệp, tạo ác nghiệp có cơ hội hiện rõ trong cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) như thế nào?

Đối tượng kammanimitta có 6 đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) là nhân có liên quan tạo thiện nghiệp, tạo ác nghiệp bằng thân, khẩu, ý; nên đối tượng kammanimitta: hiện tượng tạo thiện nghiệp, tạo ác nghiệp này hiện rõ trong 6 môn: nhãn môn, nhĩ môn, tỷ môn, thiệt môn, thân môn, ý môn nên có 6 loại thức tâm là nhãn thức tâm, nhĩ thức tâm, tỷ thức tâm, thiệt thức tâm, thân thức tâm, ý thức tâm, tùy theo mỗi đối tượng.

Như vậy, người thiện nào tạo phước thiện bố thí, phước thiện giữ giới, phước thiện hành thiền, … cùng với các pháp hỗ trợ bằng thân, bằng khẩu, bằng ý với đại thiện tâm.

Hoặc người ác nào tạo ác nghiệp sát sinh, ác nghiệp trộm cắp, ác nghiệp tà dâm, ác nghiệp nói dối, ác nghiệp uống rượu, bia và các chất say, v.v… cùng với các pháp hỗ trợ bằng thân, bằng khẩu, bằng ý với bất thiện tâm.

Nếu người ấy đến lúc lâm chung gần chết, không có nghiệp nào đặc biệt thì đối tượng kammanimitta: hiện tượng tạo nghiệp này có cơ hội hiện rõ trong cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta).

Đối tượng gatinimitta: Đối tượng hiện tượng sẽ dắt dẫn tái sinh kiếp sau trong cõi thiện giới, hoặc cõi ác giới có cơ hội hiện ra trong cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) như thế nào?

Đối tượng gatinimitta đó là 6 đối tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) sẽ dắt dẫn tái sinh kiếp sau trong cõi thiện giới, hoặc cõi ác giới, người ấy sẽ nhận biết và sẽ thụ hưởng trong kiếp kế tiếp, nên đối tượng gati nimitta này sẽ hiện rõ trong 6 môn. Nhưng thật ra, đối tượng gatinimitta này phần nhiều hiện rõ trong nhãn môn và ý môn, trong nhãn môn cận tử lộ trình tâm và trong ý môn cận tử lộ trình tâm.

Người thiện nào tạo phước thiện bố thí, phước thiện giữ giới, phước thiện hành thiền nào, … trong thời kỳ muñcacetanā tác ý tâm sở đồng sinh với đại thiện tâm có nhiều năng lực đang khi tạo phước thiện ấy.

Người ác nào tạo ác nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, bia và các chất say nào, … trong thời kỳ muñcacetanā tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm có nhiều năng lực đang khi tạo ác nghiệp ấy.

Đối với người ấy đến lúc lâm chung, đối tượng gatinimitta có cơ hội hiện rõ trong cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta).

Hoặc người nào tạo phước thiện bố thí, phước thiện giữ giới, phước thiện hành thiền nào,… trong thời kỳ pubbacetanā, tác ý tâm sở đồng sinh với đại thiện tâm trước khi tạo phước thiện ấy, và trong thời kỳ apara cetanā, tác ý tâm sở đồng sinh với đại thiện tâm sau khi đã tạo phước thiện ấy, người ấy thường niệm tưởng đến phước thiện ấy, phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ trong phước thiện ấy.

Hoặc người nào tạo ác nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, bia và các chất say,… trong thời kỳ pubbacetanā, tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm trước khi tạo ác nghiệp ấy, và trong thời kỳ aparacetanā, tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm sau khi đã tạo ác nghiệp ấy, người ấy mỗi khi nhớ đến ác nghiệp ấy, phát sinh sân tâm làm khổ tâm hối hận, bởi vì không tạo đại thiện nghiệp mà tạo ác nghiệp ấy.

Đối tượng gatinimitta: Đối tượng hiện tượng chỉ hiện rõ đối với riêng người ấy trong lúc lâm chung mà thôi, như người nằm ngủ thấy trong mộng mà người ấy có cảm giác như thật.

Đối tượng hiện tượng gatinimitta này hiện rõ đối với số người trước 1 2 phút trước khi chết, hoặc 1 2 giờ trước khi chết, thậm chí có số người 1 2 ngày trước khi chết.

Đối tượng gatinimitta có cơ hội hiện rõ trong cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) cuối cùng đối với người lúc lâm chung gần chết.

Như vậy, đối với tất cả chúng sinh gồm có chúng sinh trong 4 cõi ác giới (địa ngục, a su ra, ngạ quỷ, súc sinh), loài người, chư vị thiên nam, vị thiên nữ trên 6 cõi trời dục giới, chư phạm thiên trên 15 tầng trời sắc giới phạm thiên (trừ chư phạm thiên trong tầng trời sắc giới phạm thiên Vô tưởng thiên), trên 4 tầng trời vô sắc giới phạm thiên thuộc về phàm nhân, thậm chí cả 3 bậc Thánh nhân là bậc Thánh Nhập lưu, bậc Thánh Nhất lai, bậc Thánh Bất lai, đến lúc lâm chung đều có cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) có 1 trong 3 đối tượng kamma, kammanimitta, gatinimitta, bởi vì những hạng chúng sinh ấy còn tái sinh kiếp sau.

Tuy nhiên đối với chư bậc Thánh A ra hán đến lúc lâm chung, cũng có cận tử lộ trình tâm (maraṇā sannavīthicitta) nhưng mà không có 1 trong 3 đối tượng (kamma, kammanimitta, gatinimitta), bởi vì chư bậc Thánh A ra hán đã diệt tận được mọi vô minh, mọi tham ái, mọi phiền não không còn dư sót, kiếp này là kiếp chót. Cho nên, chư bậc Thánh A ra hán đến lúc lâm chung, dù có cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) vẫn có 1 trong 6 đối tượng tùy theo mỗi bậc Thánh A ra hán, các tâm tuần tự sinh rồi diệt đến cuti đó là cuticitta là quả tâm cuối cùng của bậc Thánh A ra hán diệt gọi là khandhaparinibbāna: ngũ uẩn Niết bàn nghĩa là ngũ uẩn tịch diệt rồi không còn ngũ uẩn nào khác sinh nữa, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Trường hợp ông cận sự nam Dhammika có cận tử lộ trình tâm (maraṇāsannavīthicitta) trong lúc lâm chung có đối tượng gatinimitta là chiếc xe trời từ cõi trời Tusitā là đối tượng hiện tượng dắt dẫn tái sinh kiếp sau trên cõi trời Tusitā như đã chọn.


Ghi Chú

  • 1
    Aṅguttaranikāya, Pañcakanipāta, Bhojanadānasutta.
  • 2
    Vinayapiṭaka, Mahāvagga, phần Bhesajjakkhandhaka.
  • 3
    Dhammapadaṭṭhakathā,Yamakavagga, Dhammika upāsikavatthu.
  • 4
    1.000 con ngựa báu này do chư thiên hóa ra làm phận sự kéo xe trời, không phải là con ngựa thuộc loài súc sinh.
  • 5
    1 gāvuta có chiều dài khoảng 5.120,64 mét.