WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Đề Mục Niệm Rải Tâm Từ Theo Thanh Tịnh Đạo

Tâm Từ
Mettacitta

Soạn giả
Tỳ Khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)

(Aggamahāpaṇdita)

Ðề mục niệm rải tâm từ là một trong 40 đề mục thiền định có khả năng chứng đắc các bậc thiền, từ đệ nhất thiền sắc giới thiện tâm cho đến đệ tứ thiền sắc giới thiện tâm, mà không có khả năng chứng đắc đến đệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm.

Vì vậy cho nên, khi hành giả thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ này, có khả năng đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới thiện tâm xong rồi, nếu muốn tiếp tục thực hành pháp hành thiền định để chứng đắc đến bậc đệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm, thì hành giả cần phải thay đổi sang đề mục niệm rải tâm xả, tiếp tục thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm xả ấy mới có thể dẫn đến sự chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm.

Hành giả niệm rải tâm từ có nghĩa là trong tâm đã sẵn có tâm từ mới có thể rải tâm từ đến tất cả chúng sinh; tâm từ có năng lực càng mạnh, thì rải ra khắp mọi nơi càng xa; tất cả chúng sinh cảm nhận được sự mát mẻ, an lạc càng nhiều. Ðiều này có thể cụ thể hóa, ví như ban đêm, một người tay cầm cây đèn pin (viên pin còn năng lượng, bóng đèn tốt) rọi đến hướng nào, thì làm cho các vật ở hướng ấy hiện ra và thấy được rõ ràng; nếu cây đèn pin thiếu một bộ phận nào, thì ngay chính người ấy cũng không thấy rõ được, còn mong gì rọi sáng được đến nơi nào, thì làm sao thấy được các vật khác.

Tâm từ không phát sinh

Tâm từ phát sinh do nương nhờ đối tượng chúng sinh đáng yêu, đáng kính, đáng mến (piyamanāpasattapaññatti). Do đó, nếu hành giả bắt đầu thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ đến đối tượng một số hạng chúng sinh không thích hợp, thì tâm từ không thể phát sinh được như sau:

Bốn hạng người không thể làm đối tượng ban đầu để niệm rải tâm từ:

Trong bộ Visuddhimagga (Thanh tịnh đạo) dạy hành giả không nên thực hành pháp hành niệm rải tâm từ trước tiên đến 4 hạng người sau đây:

Appiyapuggala: Hạng người không thương yêu Hành giả không nên bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người mà mình không thương yêu, vì tâm từ khó phát sinh; do không phải là người mà mình thương yêu, nên làm cho tâm khó chịu, không an trú nơi đối tượng.

Atippiyapuggala: Hạng người thương yêu, kính mến nhiều.

Hành giả không nên bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người mà mình thương yêu, kính mến nhiều, vì một khi đối tượng người ấy bị bệnh hoạn ốm đau… thì tâm từ không sinh, mà tâm buồn rầu lo lắng phát sinh.

Majjhattapuggala: Hạng người không thương, không ghét.

Nếu hành giả bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người mà mình không thương, không ghét, thì tâm từ không thể phát sinh, bởi vì đối tượng người ấy không có ân nghĩa đối với mình, như người dưng, người mà mình không quan tâm đến.

Verīpuggala: Hạng người thù địch.

Nếu hành giả bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thù địch, thì tâm từ không thể phát sinh, chỉ có tâm sân phát sinh mà thôi, bởi vì người ấy là kẻ thù của mình hoặc của gia đình mình hoặc của thân quyến mình.

Ðó là 4 hạng người mà hành giả không nên dùng làm đối tượng bắt đầu niệm rải tâm từ, chỉ nên rải tâm từ ở giai đoạn sau khi hành giả đã có tâm từ vững chắc trong đại thiện tâm mà thôi.

Và hành giả cũng không nên bắt đầu niệm rải tâm từ đến hạng người khác phái (liṅga visabhāgapuggala), nghĩa là nếu hành giả là nam giới thì không nên thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến nữ giới; và ngược lại, nếu hành giả là nữ giới thì không nên thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến nam giới, vì tâm từ sẽ không phát sinh mà chỉ có tâm tham ái phát sinh mà thôi.

Hành giả cũng không nên niệm rải tâm từ đến hạng người đã chết (kalaṅgatapuggala), tâm từ hoàn toàn sẽ không phát sinh bởi vì đối tượng không còn nữa.

Hành giả thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, tất nhiên hành giả phải có đầy đủ tâm từ trước tiên. Ðể cho tâm từ dễ dàng phát sinh và tiến triển, hành giả phải bắt đầu thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ đến cho mình trước tiên. Bởi vì trong cõi đời này, suy cho kỹ, xét cho cùng, chẳng có ai thương yêu người khác hơn thương yêu chính mình. Thật vậy, chính mình là người thương yêu nhất đời, luôn luôn mong sự an lạc, không muốn sự khổ não. Ðối với tất cả chúng sinh khác dù lớn, dù nhỏ cũng như vậy, cũng đều muốn sống an lạc, không muốn ai đến làm khổ mình cả.

Như Ðức Phật dạy:

“Sabbā disā anuparigamma cetasā,
Nevajjhagā piyataramattanā kvaci.
Evaṃ piyo puthu attā paresaṃ,
Tasmā na hiṃse paramattakāmo.”1Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Mallikāsutta.

(Bậc thiện trí quán xét,
Tất cả mọi phương hướng,
Không gặp một người nào,
Yêu người hơn yêu mình,
Bất cứ trường hợp nào,
Chính mình yêu quý nhất,
Chúng sinh khác cũng thế.
Vì vậy, tự yêu mình,
Chớ nên làm đau khổ,
Chúng sinh lớn nhỏ khác.)

Phương pháp niệm rải tâm từ theo tuần tự Niệm rải tâm từ cho mình

Ðề mục niệm rải tâm từ cho chính mình trước tiên bằng 4 cách như sau:

Ahaṃ avero homi: Mong cho tôi không oan trái với tất cả chúng sinh.

Ahaṃ abyāpajjo homi: Mong cho tôi không khổ tâm, sầu não.

Ahaṃ anīgho homi: Mong cho tôi không có khổ thân.

Ahaṃ sukhī attānaṃ pariharāmi2Bộ Visuddhimagga, phần Brahmadattamavihāraniddesa, Mettābhāvanākathā. : Mong cho tôi giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

Hành giả thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ cho chính mình bằng 4 cách trên, cho đến khi nào tâm từ phát triển và tiến hóa trong đối tượng bên trong của mình một cách khắng khít, vững chắc, thiện tâm an lạc hợp với tâm từ, khi ấy mới có thể làm nền tảng để tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến 4 hạng người theo tuần tự trước sau.

Niệm rải tâm từ theo tuần tự

Bốn hạng người mà hành giả nên niệm rải tâm từ theo tuần tự trước sau như sau:

Piyapuggala: Hạng người thương yêu.

Hạng người này đã từng quen biết, thân mật với mình, là bạn bè cùng chung trong công việc, thường giúp đỡ lẫn nhau.

Hành giả niệm rải tâm từ đến một người thương yêu ấy bằng 4 cách số ít như sau:

Avero hotu: Mong cho người ấy không oan trái với tất cả chúng sinh.

Abyāpajjo hotu: Mong cho người ấy không khổ tâm, sầu não.

Anīgho hotu: Mong cho người ấy không có khổ thân.

Sukhī attānaṃ pariharatu: Mong cho người ấy giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

Hành giả niệm rải tâm từ đến nhiều người thương yêu ấy bằng 4 cách số nhiều như sau:

Averā hontu: Xin cho những người ấy không oan trái với tất cả chúng sinh.

Abyāpajjā hontu: Mong cho những người ấy không khổ tâm, sầu não.

Anīghā hontu: Mong cho những người ấy không có khổ thân.

Sukhī attānaṃ pariharantu: Mong cho những người ấygiữ gìn thân tâm thường được an lạc.

Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến những người thương yêu ấy, tâm từ dễ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít, vững chắc trong đối tượng những người thương yêu ấy; khi hành giả đã có tâm từ vững chắc làm nền tảng, có đại thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, để phát triển tâm từ rải khắp đến những hạng người tiếp theo, đó là hạng người thương yêu nhiều.

Atippiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều.Hạng người này như ông bà, cha mẹ, thầy tổ,… là những ân nhân có công sinh thành, nuôi dưỡng và dạy dỗ mình nên người. Bình thường ta rất thương yêu họ với tâm tham, và mỗi khi họ bị bệnh hoạn ốm đau thì tâm sân nóng lòng phát sinh buồn rầu lo lắng. Do đó, hành giả không nên bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thương yêu nhiều này, bởi vì tâm từ khó phát sinh mà nên thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến những hạng người thương yêu nhiều này sau hạng người thương yêu.

Hành giả vốn đã có tâm từ vững chắc làm nền tảng, có đại thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc làm căn bản, khi ấy hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thương yêu nhiều bằng 4 cách như trên (averā hontu…) không còn trở ngại nữa. Khi tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít, vững chắc trong đối tượng ấy, để phát triển tâm từ rải khắp đến những hạng người tiếp theo, đó là hạng người không thương, không ghét.

Majjhattapuggala: Hạng người không thương, không ghét.

Hạng người này là những người không có ân nghĩa trực tiếp với mình, nên tâm từ khó phát sinh. Do đó, hành giả không nên bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người không thương không ghét này, bởi vì tâm từ khó phát sinh mà nên thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến những hạng người không thương, không ghét này sau hạng người thương yêu nhiều.

Hành giả vốn đã có tâm từ vững chắc làm nền tảng, có đại thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc làm căn bản, khi ấy hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người không thương, không ghét bằng 4 cách như trên (averā hontu…) không còn trở ngại nữa. Khi tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít, vững chắc trong đối tượng ấy, để phát triển tâm từ rải khắp đến những hạng người tiếp theo, đó là hạng người thù địch.

Verīpuggala: Hạng người thù địch.

Hạng người này đã là người thù của mình hoặc của gia đình, dòng họ … của mình; cho nên mỗi khi nghĩ đến họ, thì tâm sân phát sinh, tâm từ khó phát sinh lên được. Do đó, hành giả không nên bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến những người này trước mà nên thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến những hạng người thù địch này ở giai đoạn cuối cùng sau hạng người không thương, không ghét.

Sau khi hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người không thương, không ghét, tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc làm nền tảng vững chắc, khi ấy hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thù địch bằng 4 cách như trên (averā hontu…). Nếu tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít, vững chắc trong đối tượng ấy, thì đó là thiện pháp tăng trưởng tốt.

Nếu tâm từ không phát sinh, chỉ có tâm sân hận phát sinh, thì hành giả cần phải khuyên dạy mình rằng: “Tâm sân hận là loại ác tâm tạo ác nghiệp, nếu chúng sinh sau khi chết, do tâm sân ác nghiệp ấy cho quả tái sinh, thì thường bị sa đọa trong cõi địa ngục, chịu bao nhiêu nỗi khổ cực hình do ác nghiệp của mình đã tạo (trong kiếp quá khứ). Chúng sinh đang chịu khổ trong cõi địa ngục ấy, điều chắc chắn là không phải do hạng người thù địch của mình, mà sự thật là do tâm sân ác nghiệp của mình cho quả tái sinh vào cõi địa ngục.”

Nếu hành giả kinh sợ mọi cảnh khổ cực hình trong cõi địa ngục, thì cố gắng tinh tấn chế ngự, đè nén không cho phát sinh tâm sân, để thiện tâm hợp với tâm từ phát sinh; hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thù địch ấy bằng 4 cách như trên (averā hontu…), tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít vững chắc trong đối tượng ấy. Ðó là thiện pháp phát triển.

Trường hợp tự khuyên dạy mình như vậy, mà không chế ngự, đè nén được tâm sân hận, thì hành giả nên quán xét đến 5 quả báu của đức tính nhẫn nại trong Kinh Khantisutta3Năm quả báu của đức tính nhẫn nại: 1. Người có pháp nhẫn nại là người được phần đông mọi người thương yêu quý mến; 2. Là người không gây oan trái với người khác; 3. Là người hay tạo đại thiện nghiệp đem lại an lạc cho mình, cho người; 4. Là người có đại thiện tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung; 5. Sau khi chết, đại thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện giới (cõi người và 6 cõi trời dục giới). và 11 quả báu của tâm từ trong Kinh Mettāsutta4Aṅguttaranikāya, phần Ekadasakanipāta, kinh Mettāsutta, hoặc xem phần sau của quyển sách này. .

Khi quán xét đến 5 quả báu của đức nhẫn nại và 11 quả báu của tâm từ, hành giả chế ngự, đè nén không cho tâm sân phát sinh, để thiện tâm hợp với tâm từ phát sinh; hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến những hạng người thù địch ấy bằng 4 cách như trên (averā hontu…), tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít, vững chắc trong đối tượng ấy. Ðó là thiện pháp phát triển.

Trường hợp quán xét 5 quả báu của đức nhẫn nại và 11 quả báu của tâm từ như vậy mà vẫn không chế ngự, đè nén được tâm sân, thì hành giả quán xét đến lời giáo huấn của Ðức Phật trong Saṃyuttanikāya (Ðồng loại bộ kinh), bộ Nidāna vagga các kinh như Mātusutta, Pitusutta, v.v…

Ðức Phật dạy rằng:

“Này chư tỳ khưu, trong vòng tử sinh luân hồi từ vô thủy không sao kể xiết được … người mà chưa từng là mẹ của ta, là cha, là anh, là chị, là em, là con trai, là con gái của ta … không dễ gì tìm thấy được.

Ðiều đó tại sao? Bởi vì trong vòng tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh từ vô thủy cho đến kiếp hiện tại này, đã trải qua vô số kiếp không sao kể xiết được.”

Như vậy, trong số người mà ta cho là hạng người thù địch của ta, chắc chắn số người ấy cũng đã từng là cha mẹ, ân nhân của ta, đã từng nuôi dưỡng, dạy dỗ ta nên người. Họ đã từng thương yêu ta và chính ta cũng đã từng thương yêu họ. Nay kiếp hiện tại này dù họ là con người thế nào (có thân thể khác xưa) và ta (cũng có thân thể khác), song tâm cũng liên quan tình cảm với nhau, dù cho kiếp này họ là người thù địch của ta đi chăng nữa, ta cũng không nỡ lòng nào giận hờn, thù ghét… họ; tâm của ta cần phải biết đến công ơn của họ. Như vậy, bậc thiện trí gọi ta là con người tốt, là con người biết ơn và biết đền ơn.

Khi quán xét ân nhân cũ của ta, thiện tâm phát sinh, đồng thời thiện tâm biết ơn và biết đền ơn nghĩ đến những bậc ân nhân trong những tiền kiếp, nay dù là hạng người thù địch, ta không nên có tâm sân hận đối với họ. Trước đó, hành giả vốn đã có thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc làm căn bản; khi ấy hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến những hạng người thù địch ấy bằng 4 cách như trên (averā hontu…), tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít, vững chắc trong đối tượng ấy.

Tóm lại, hành giả thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ theo tuần tự đối tượng trước đến đối tượng sau; tâm từ của đối tượng trước làm nền tảng vững chắc cho tâm từ của đối tượng sau theo tuần tự như sau:

Bắt đầu, hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến cho chính mình.

Tiếp đến tuần tự, hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thương yêu.

Tiếp đến tuần tự, hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thương yêu nhiều.

Tiếp đến tuần tự, hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người không thương, không ghét.

Cuối cùng, hành giả tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến hạng người thù địch, tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc, khắng khít vững chắc trong mỗi đối tượng. Ðó là thiện pháp phát triển.

Phương pháp thực hành pháp hành niệm rải tâm từ được trình bày ở trên, tâm từ của hành giả phát sinh từ đại thiện tâm hợp với vô sân tâm sở rải đến từng mỗi đối tượng. Cho nên, hành giả cần phải có đủ 5 pháp: đức tin, tinh tấn, niệm, định, tuệ làm nền tảng cơ bản vững chắc, để thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến từng mỗi đối tượng, tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, nên thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc trong từng mỗi đối tượng.

Phương pháp niệm rải tâm từ đến từng hạng người Hành giả thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ hướng tâm đến từng mỗi hạng người phải theo tuần tự trước sau. Tâm từ phát sinh và tiến triển từ đối tượng hạng người trước làm nền tảng cơ bản để cho tâm từ phát sinh và tiến triển nơi đối tượng hạng người sau.

Hạng người theo tuần tự:

Ðối tượng để cho tâm từ phát sinh và tiến triển là một điều không phải dễ dàng, cho nên hành giả cần phải có đầy đủ 15 pháp trong bài kinh Tâm từ trước khi thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến từng đối tượng theo tuần tự trước sau.

1. Hạng người đầu tiên đó là chính mình làm đối tượng niệm rải tâm từ bằng 4 cách như sau:

1.1 Ahaṃ avero homi: Mong cho tôi không oan trái với tất cả mọi chúng sinh.

1.2 Ahaṃ abyāpajjo homi: Mong cho tôi không có khổ tâm, sầu não.

1.3 Ahaṃ anīgho homi: Mong cho tôi không có khổ thân.

1.4 Ahaṃ sukhī attānaṃ pariharāmi: Mong cho tôi giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

2. Hạng người thương yêu (số nhiều) làm đối tượng niệm rải tâm từ bằng 4 cách như sau:

2.1 Averā hontu: Mong cho những người thương yêu ấy không oan trái lẫn nhau.

2.2 Abyāpajjā hontu: Mong cho những người thương yêu ấy không có khổ tâm, sầu não.

2.3 Anīghā hontu: Mong cho những người thương yêu ấy không có khổ thân.

2.4 Sukhī attānaṃ pariharantu: Mong cho những người thương yêu ấy giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

3. Hạng người thương yêu nhiều (số nhiều) làm đối tượng niệm rải tâm từ bằng 4 cách như sau:

3.1 Averā hontu: Mong cho những người thương yêu nhất ấy không oan trái lẫn nhau.

3.2 Abyāpajjā hontu: Mong cho những người thương yêu nhất ấy không khổ tâm, sầu não.

3.3 Anīghā hontu: Mong cho những người thương yêu nhất ấy không có khổ thân.

3.4 Sukhī attānaṃ pariharantu: Mong cho những người thương yêu nhất ấy giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

4. Hạng người không thương, không ghét (số nhiều) làm đối tượng niệm rải tâm từ bằng 4 cách như sau:

4.1 Averā hontu: Mong cho những người không thương, không ghét ấy không oan trái lẫn nhau.

4.2 Abyāpajjā hontu: Mong cho những người không thương, không ghét ấy không khổ tâm, sầu não.

4.3 Anīghā hontu: Mong cho những người không thương, không ghét ấy không có khổ thân.

4.4 Sukhī attānaṃ pariharantu: Mong cho những người không thương, không ghét ấy giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

5. Hạng người thù địch (số nhiều) làm đối tượng niệm rải tâm từ bằng 4 cách như sau:

5.1 Averā hontu: Mong cho những người thù địch ấy không oan trái lẫn nhau.

5.2 Abyāpajjā hontu: Mong cho những người thù địch ấy không khổ tâm, sầu não.

5.3 Anīghā hontu: Mong cho những người thù địch ấy không có khổ thân.

5.4 Sukhī attānaṃ pariharantu: Mong cho những người thù địch ấy giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

Ngoài 5 hạng người trên ra, hành giả có thể thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến người thân yêu của mình như cha mẹ, thầy tổ, bạn bè, v.v…

Khi hành giả đã có tâm từ làm nền tảng vững chắc, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc trong đối tượng, hành giả có thể thay đổi đối tượng rải tâm từ theo ý của mình.

Phương pháp niệm rải tâm từ đơn giản

Niệm rải tâm từ cho chính mình:

“Ahaṃ sukhito homi niddukkho.”

(Mong cho tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Niệm rải tâm từ đến thân mẫu của mình còn sống cách đơn giản như sau:

“Mātā me sukhī hotu niddukkhā.”

(Mong cho thân mẫu của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Niệm rải tâm từ đến thân phụ của mình còn sống cách đơn giản như sau:

“Pitā me sukhī hotu niddukkho.”

(Mong cho thân phụ của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Niệm rải tâm từ đến thầy tổ của mình còn sống cách đơn giản như sau:

“Ācariyo me sukhī hotu niddukkho.”

(Mong cho bậc thầy tổ của con được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Niệm rải tâm từ đến những bạn bè của mình còn sống cách đơn giản như sau:

“Mittā me sukhī hontu niddukkhā.”

(Mong cho những bạn bè của tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Niệm rải tâm từ đến những bà con thân quyến của mình còn sống cách đơn giản như sau:

“Ñātayo no sukhī hontu niddukkhā.”

(Mong cho những bà con thân quyến của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Niệm rải tâm từ đến dân tộc Việt Nam cách đơn giản như sau:

“Vietnamraṭṭhikā no sukhī hontu niddukkhā.”

(Mong cho dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng tôi được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh cách đơn giản như sau:

“Sabbe sattā sukhitā hontu niddukkhā.”

(Mong cho tất cả chúng sinh được sự an lạc, không có khổ thân, khổ tâm.)

Những phương pháp thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến từng hạng người theo tuần tự trước sau này, không thể dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới thiện tâm, nhưng theo phương pháp này, làm cho hành giả phát sinh tâm từ khiến thân và tâm được an lạc; và mỗi hạng người làm đối tượng của tâm từ cũng cảm thấy thân và tâm mát mẻ dễ chịu, thương yêu, quý mến đến hành giả một cách đặc biệt và tự nhiên, do năng lực tâm từ của hành giả.

Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến từng hạng người với thiện tâm hợp tâm từ, cầu mong mỗi hạng người đều được an lạc, không oan trái lẫn nhau, không khổ tâm, không khổ thân, cầu mong họ giữ gìn thân tâm thường được an lạc.

Tâm từ chứng đắc các bậc thiền sắc giới thiện tâm

Hành giả thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ đến từng hạng người, bắt đầu niệm rải tâm từ cho chính mình, rồi tuần tự niệm rải tâm từ đến người thương yêu, người thương yêu nhiều, người không thương không ghét và đến giai đoạn cuối cùng là niệm rải tâm từ đến hạng người thù địch, tâm từ phát sinh và tiến triển tốt, thiện tâm hợp với tâm từ được an lạc trong từng mỗi đối tượng không còn trở ngại nữa. Khi ấy tâm từ của hành giả đạt đến mức cao, gọi là sīmasambheda: nghĩa là phá tan được ranh giới tâm từ; để cho tâm từ đồng đều cả mình lẫn mọi hạng người, không còn phân biệt gọi là samacittatā: nghĩa là tâm từ đối với chính mình như thế nào, thì tâm từ đối với các hạng người khác, thậm chí đối với hạng người thù địch cũng như thế ấy, đồng đều nhau cả thảy.

Ví dụ: Hành giả đang thực hành pháp hành niệm rải tâm từ cùng ngồi chung với 4 hạng người: hạng người thương yêu, hạng người thương yêu nhiều, hạng người không thương, không ghét và hạng người thù địch. Nếu có một kẻ sát nhân đến bảo với hành giả rằng:

Ta cần một người trong 5 người này; vậy nhà ngươi chỉ cho ta bắt người nào?

Ông cần bắt một người để làm gì?

Ta cần bắt một người để giết, rồi lấy máu tế thần linh của ta.

Khi gặp trường hợp như vậy, nếu hành giả còn có tâm thiên vị, chỉ cho tên sát nhân bắt người thù địch của mình hoặc người không thương không ghét hoặc người thương yêu hoặc người thương yêu nhiều, thì hành giả chưa đạt đến sīmasambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ; hoặc dù hành giả chịu hy sinh sinh mạng của mình, để bảo vệ sinh mạng của 4 người khác, thì cũng chưa đạt đến sīma sambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ. Bởi vì tâm từ còn phân biệt giới hạn giữa những hạng người khác với chính mình.

Hành giả không thể chỉ định bắt một hạng người nào trong số 5 hạng người ấy, thì mới đạt đến sīmasambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ.

Như vậy, tâm từ của hành giả đã có được một nền tảng vững chắc trước tiên, và sau đó, tiếp tục thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh để dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới thiện tâm theo khả năng của đề mục niệm rải tâm từ.

Ðề mục niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không ngoại trừ một chúng sinh nào, cho nên, sau khi hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến đối tượng tất cả các hạng người, đã phá tan được ranh giới của tâm từ (sīmasambheda), đạt đến tâm từ đồng đều giữa mình với tất cả hạng người (samacittatā) bằng thiện tâm hợp với tâm từ hướng đến các đối tượng ấy, làm nền tảng căn bản xong rồi, hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ theo phương pháp Parikamma: niệm rải tâm từ bằng lời hoặc niệm thầm trong tâm, để dẫn đến sự chứng đắc các bậc thiền sắc giới thiện tâm theo khả năng của đề mục niệm rải tâm từ.


Ghi Chú

  • 1
    Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Mallikāsutta.
  • 2
    Bộ Visuddhimagga, phần Brahmadattamavihāraniddesa, Mettābhāvanākathā.
  • 3
    Năm quả báu của đức tính nhẫn nại: 1. Người có pháp nhẫn nại là người được phần đông mọi người thương yêu quý mến; 2. Là người không gây oan trái với người khác; 3. Là người hay tạo đại thiện nghiệp đem lại an lạc cho mình, cho người; 4. Là người có đại thiện tâm tỉnh táo sáng suốt lúc lâm chung; 5. Sau khi chết, đại thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện giới (cõi người và 6 cõi trời dục giới).
  • 4
    Aṅguttaranikāya, phần Ekadasakanipāta, kinh Mettāsutta, hoặc xem phần sau của quyển sách này.