Tâm Từ
Mettacitta
Soạn giả
Tỳ Khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)
(Aggamahāpaṇdita)
Nội dung
Nguyên nhân của bài kinh Tâm từ
Một thuở nọ, Ðức Phật ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi tỳ khưu.
Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavanta, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỷ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư tỳ khưu. Họ hoan hỷ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư tỳ khưu xong, bèn bạch rằng:
Kính bạch chư Ðại đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi này, để cho tất cả chúng con có được cơ hội làm phước cúng dường bốn thứ vật dụng, thọ trì Tam quy, ngũ giới, nghe pháp. Kính xin quý Ngài hoan hỷ nhận lời thỉnh mời của tất cả chúng con.
Chư tỳ khưu xét thấy chỗ ở, con người, vật thực… thích hợp cho việc thực hành pháp hành thiền định, thực hành pháp hành thiền tuệ, nên nhận lời thỉnh mời của họ. Họ vô cùng hoan hỷ làm 500 cốc nhỏ, giảng đường hội họp, có đầy đủ tiện nghi đối với chư tỳ khưu, rồi làm lễ dâng cúng đến chư tỳ khưu Tăng.
Chư tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi, ngồi hành đạo dưới những cội cây, do oai lực giới đức trong sạch của quý Ngài làm cho nhóm chư thiên ở trong lâu đài của mình trên cội cây không thể ở yên ổn được, nên đành dẫn thân quyến xuống ở dưới mặt đất, bị mưa gió làm cho nhóm chư thiên này sống rất vất vả khổ cực. Nhóm chư thiên ấy biết rõ chư tỳ khưu này sẽ ở đây suốt ba tháng mùa mưa, nên họ hội họp, bàn luận với nhau rằng: “Những vị tỳ khưu này sẽ ở lại đây suốt ba tháng mùa mưa, chúng ta không một ai dám trở lại lâu đài của mình ở trên cây. Chúng ta làm cách nào để các vị ấy rời khỏi khu rừng núi này.”
Rồi họ nhất trí với nhau rằng: “Chúng ta nên hóa ra những hình ảnh đáng ghê sợ, những thứ âm thanh rùng rợn, những mùi hôi khó chịu, v.v… khiến cho các vị ấy không thể nào tiếp tục ở lại nữa.”
Thật vậy, chư tỳ khưu đang thực hành pháp hành thiền định, thực hành pháp hành thiền tuệ, ban đêm nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm một số đông chư tỳ khưu bị dao động, không ổn định, phát sinh tâm sợ hãi. Do đó, nên thân hình gầy ốm, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, phát sinh bệnh hoạn, làm cho tâm không thể an trú trong đề mục thiền định.
Một hôm, chư tỳ khưu Tăng hội họp, vị Ðại đức trưởng nhóm hỏi chư tỳ khưu rằng:
Này chư pháp đệ, trước khi vào trú ngụ trong khu rừng núi này ai cũng khỏe mạnh, da dẻ hồng hào, gương mặt tươi sáng v.v… Nhưng bây giờ quý pháp đệ có thân hình gầy gò, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, bệnh hoạn, v.v… quý pháp đệ trú ngụ tại khu rừng núi này có điều gì không thuận lợi có phải không?
Chư tỳ khưu bạch rằng:
Kính bạch Ngài Ðại đức, ban đêm chúng con nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm của chúng con bị dao động, không ổn định, phát sinh tâm sợ hãi, nên tâm của chúng con không thể an trú trong đề mục thiền định, và phát sinh tình trạng như vậy, bạch Ngài.
Ngài Ðại đức trưởng nhóm dạy rằng:
Này chư pháp đệ, như vậy, chỗ ở nơi này không thích hợp cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Ðức Thế Tôn cho phép tỳ khưu an cư nhập hạ hai kỳ:
An cư nhập hạ đầu: Kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến 15 tháng 9 (âm lịch).
An cư nhập hạ sau: Kể từ ngày 16 tháng 7 cho đến 15 tháng 10 (âm lịch).
Vậy, chúng ta còn có đủ thời gian trở về hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin phép Ngài an cư nhập hạ sau ở một nơi khác. Quý pháp đệ nghĩ thế nào?
Tất cả chư tỳ khưu đều đồng tâm nhất trí nghe theo lời vị Ðại đức trưởng nhóm, sửa soạn lên đường trở về xứ Sāvatthi, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, Ngài truyền dạy rằng:
Này chư tỳ khưu, Như lai đã chế định, ban hành đến tất cả chư tỳ khưu: “Trong mùa mưa, chư tỳ khưu phải an cư nhập hạ suốt ba tháng tại một nơi, không được phép đi ở nơi khác, nếu không có nguyên nhân chính đáng”. Vậy, do nguyên nhân nào mà các con bỏ chỗ ở cũ.
Chư tỳ khưu kính bạch Ðức Thế Tôn rõ những tai họa xảy ra do nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy, cho nên, chư tỳ khưu không thể tiếp tục an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa. Kính xin Ðức Thế Tôn cho phép an cư nhập hạ sau tại một nơi chốn khác.
Quán xét thấy không có chỗ ở nào thuận lợi hơn nơi khu rừng núi cũ ấy, Ðức Thế Tôn khuyên dạy rằng:
Này chư tỳ khưu, chỗ ở khác thuận lợi hơn không có, các con nên trở lại chỗ ở cũ; Như lai sẽ dạy các con bài kinh Mettāsutta1Khuddakanikāya, bộ Suttanipāta, Kinh Mettāsutta, xin xem toàn bài kinh ở phần sau. , là paritta bảo vệ cho các con được an toàn, để các con làm đề mục thiền định và làm nền tảng thực hành pháp hành thiền tuệ, thích hợp đối với các con.
Ðó là nguyên nhân mà Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Mettāsutta: Kinh Tâm từ này.
Sau khi học tập bài kinh này xong, thực hành theo lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn, chư tỳ khưu cùng nhau trở lại khu rừng núi cũ. Khi ấy nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy cảm thấy mát mẻ, an lạc do năng lực tâm từ của chư tỳ khưu nên vô cùng hoan hỷ hộ độ chư tỳ khưu sống yên ổn thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới thiện tâm làm nền tảng, làm đối tượng để thực hành pháp hành thiền tuệ. Trong mùa an cư nhập hạ ấy, toàn thể chư tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4 Thánh quả và Niết bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng; đến ngày làm lễ Pavāraṇā, tất cả chư tỳ khưu đều làm lễ Suddhipavāraṇā: lễ thỉnh mời hoàn toàn thanh tịnh của chư bậc Thánh A-ra-hán gọi là Mahapavāraṇā: đại lễ thỉnh mời thanh tịnh.
Nội dung bài Kinh Mettāsutta (Kinh Tâm từ)
Giai đoạn thứ nhất
Pháp hành phần đầu của đề mục niệm rải tâm từ (Mettāpubbabhāgapaṭipadā).
Hành giả là bậc thiện trí có trí tuệ sáng suốt mong muốn những sự lợi ích cõi người, cõi trời và sự chứng ngộ Niết bàn. Ðối với những hành giả trú ngụ nơi rừng núi, muốn thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ, Ðức Phật dạy những hành giả ấy, trước khi thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ, cần phải nên thực hành đầy đủ 15 pháp hành gọi là Mettāpubba bhāgapaṭipadā: Pháp hành phần đầu của đề mục niệm rải tâm từ, đúng theo tinh thần cốt lõi của bài kinh Mettāsutta này; sau đó bắt đầu thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ như sau:
Sakko: Là người có khả năng, nghĩa là có đức tin trong sạch nơi Tam bảo, có tính chân thật, có sức khỏe tốt, có sự tinh tấn không ngừng, trí tuệ có khả năng hiểu biết rõ về pháp học và pháp hành.
Uju: Là người ngay thẳng, chân thật, hành thiện pháp, không hề gian dối bằng thân, bằng khẩu.
Sahuju: Là người có tính tình trung thực, hành thiện pháp bằng ý nghĩ.
Suvaco: Là người dễ dạy, khuyên dạy thế nào thì thực hành như thế ấy, không phải là người cứng đầu khó dạy.
Mudu: Là người nhu mì, tính hiền lành, thân hành động nhẹ nhàng mềm mỏng; khẩu nói lời êm dịu, dễ nghe; ý nghĩ những điều thiện, thương yêu, kính mến mọi người.
Anatimāni: Không ngã mạn, không tự cho mình hơn người hoặc bằng người hoặc thua người; đối với người lớn hơn mình thì cung kính lễ phép; đối với người bằng mình thì sống hòa nhã; đối với người nhỏ hơn mình thì tận tình giúp đỡ.
Santussako: Là người biết tri túc trong của cải của mình. Tri túc trong của cải có 3 ý nghĩa:
– Hài lòng trong của cải mình đã có sẵn.
– Hài lòng trong của cải của mình đang có được.
– Hài lòng trong của cải dù tốt dù xấu (tâm không coi trọng đồ tốt, không coi khinh đồ xấu).
Subharo: Là người dễ nuôi, người khác nuôi dưỡng như thế nào cũng hoan hỷ như thế ấy, không hề lựa chọn, phân biệt tốt xấu, ngon dở, nhiều ít, có không, v.v…
Appakicco: Là người ít công ít việc. Ðối với hành giả thực hành pháp hành thiền định, thực hành pháp hành thiền tuệ, ít công việc chừng nào tốt chừng ấy; vì ít công việc thì mới có nhiều thì giờ hành đạo.
Sallahukavutti: Là người có đời sống nhẹ nhàng; đi lại nhẹ nhàng, giống như con chim có đôi cánh để bay, có cái mỏ để kiếm ăn vừa đủ nuôi mạng trong ngày. Hành giả có đời sống nhẹ nhàng, đối với bậc xuất gia chỉ cần có 8 thứ vật dụng cần thiết hằng ngày, nhất là tam y mặc che thân, có cái bát để đi khất thực nuôi mạng trong ngày.
Santindriyo: Là người biết thu thúc lục căn thanh tịnh. Khi mắt nhìn thấy sắc đẹp hoặc xấu; khi tai nghe âm thanh hay hoặc dở; khi mũi ngửi mùi thơm hoặc hôi; khi lưỡi nếm vị ngon hoặc dở; khi thân xúc giác cứng hoặc mềm, nóng hoặc lạnh v.v…; khi tâm biết các đối tượng đáng hài lòng hoặc không đáng hài lòng, hành giả biết thu thúc lục căn thanh tịnh không để cho phiền não tham, sân, si phát sinh, chỉ có thiện tâm phát sinh mà thôi.
Nipako: Là người có trí tuệ thông minh sáng suốt, hiểu biết rõ sự lợi ích cao thượng Niết bàn, chỉ mong thực hành pháp hành thiền tuệ để mau chóng chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh đạo, 4 Thánh quả và Niết bàn giải thoát khổ sinh mà thôi.
Appagabbho: Là người có thân, khẩu, ý được trau dồi thuần đức.
Kulesu ananugiddho: Là người không quyến luyến trong các gia đình, để tránh tình trạng vui cùng vui với nhau, khổ cùng khổ với nhau.
Yena viññū pare upavadeyyuṃ, na ca khuddamācare kiñci: Những bậc thiện trí chê trách điều ác nào, không làm điều ác ấy dù là rất nhỏ.
Ðó là 15 pháp hành mà hành giả phải nên thực hành đầy đủ trước khi thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh. Nếu hành giả thực hành không đầy đủ 15 pháp hành này trước, thì sự thực hành pháp hành đề mục niệm rải tâm từ không đạt được hiệu quả tốt trong pháp hành thiền định.
Ví dụ:
Người nông dân trước khi gieo trồng hạt giống xuống đất, cần phải làm cỏ cho sạch, cày sâu bừa kỹ, dẫn nước vào, rải phân, v.v… đó là giai đoạn đầu phải làm đầy đủ, tiếp theo mới gieo giống, khi ấy hạt giống mới có đủ điều kiện nảy mầm thành cây rồi tăng trưởng…
Nếu người nông dân làm không đầy đủ khâu đầu tiên thì việc gieo trồng không đạt được hiệu quả tốt trong nông nghiệp.
Giai đoạn thứ nhì
Phương pháp thực hành pháp hành niệm rải tâm từ.
Sau khi thực hành đầy đủ 15 pháp hành phần đầu của bài kinh Tâm từ, đến giai đoạn thứ nhì, hành giả bắt đầu thực hành pháp hành niệm rải tâm từ theo tinh thần cốt lõi bài Kinh Tâm từ (Mettāsutta) có 2 phần:
Phần một: Hành giả niệm rải tâm từ, mong tất cả chúng sinh được sự tiến hóa, sự an lạc gọi là: hitasukhāgamapatthanāmettā.
Trong phần này, niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có ba phương pháp:
Sabbasaṅgāhikamettā: Thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp.
Dukabhāvanāmettā: Thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm.
Tikabhāvanāmettā: Thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm.
Thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp như thế nào?
Thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp gom vào nhau, không phân loại chúng sinh khác nhau. Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh không giới hạn, theo bài kệ trong bài Kinh Tâm từ như sau:
“Sukhino vā khemino hontu. Sabbe sattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh có thân tâm thường được an lạc, được bình an vô sự.)
Khai triển phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp này theo trạng thái có ba phương pháp thực hành pháp hành:
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng:
“Sabbe sattā sukhino hontu.”
(Mong cho tất cả chúng sinh, thân thường được an lạc.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng:
“Sabbe sattā khemino hontu.”
(Mong cho tất cả chúng sinh, tâm thường được an lạc.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh rằng:
“Sabbe sattā sukhitattā bhavantu.”
(Mong cho tất cả chúng sinh thân tâm thường được an lạc.)
Ðó là phương pháp thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp chung trong tam giới2Tam giới: Dục giới có 11 cõi, sắc giới có 16 cõi, vô sắc giới có 4 cõi. gồm có 31 cõi, 4 loài chúng sinh34 loài chúng sinh: Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh. không giới hạn, không ngoại trừ hạng chúng sinh nào.
Thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm như thế nào?
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm gồm 4 loại như sau:
Tasa thāvara: Chúng sinh còn sợ và không còn sợ.
Diṭṭhādiṭṭha: Chúng sinh nhìn thấy được và không nhìn thấy được.
Dūra santika: Chúng sinh ở xa và ở gần.
Bhūtā sambhavesi: Chúng sinh là bậc Thánh A-ra-hán, bậc Thánh hữu học và hạng phàm nhân.
Phương pháp thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm tuần tự như sau:
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
“Ye keci pāṇabhūtatthi tasā vā thāvarā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh còn sợ (hạng phàm nhân và bậc Thánh hữu học4Bậc Thánh hữu học có 3 hạng: Bậc Thánh Nhập lưu, bậc Thánh Nhất lai, bậc Thánh Bất lai. ); và hạng chúng sinh không còn sợ ‘bậc Thánh A-ra-hán’, thân tâm thường được an lạc).
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
“Ye keci pāṇabhūtatthi diṭṭhā vā adiṭṭhā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh nhìn thấy được và hạng chúng sinh không nhìn thấy được, thân tâm thường được an lạc.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
“Ye keci pāṇabhūtatthi dūrā vā avidūrā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh ở nơi xa và hạng chúng sinh ở nơi gần, thân tâm thường được an lạc.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm rằng:
“Ye keci pāṇabhūtatthi bhūtā vā sambhavesī vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh đã trở thành ‘bậc Thánh A ra hán’; và hạng chúng sinh còn phải tái sinh kiếp sau ‘bậc Thánh hữu học và hạng phàm nhân’, thân tâm thường được an lạc.)
Ðó là phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 2 nhóm trong tam giới.
Thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm như thế nào?
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm gồm 3 loại như sau:
Dīgha rassa majjhima: Chúng sinh có thân hình dài, ngắn, trung bình.
Mahantāṇuka majjhima: Chúng sinh có thân hình to, nhỏ, trung bình.
Thulāṇuka majjhima: Chúng sinh có thân hình mập, ốm, trung bình.
Phương pháp thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có thân hình khác nhau phân chia làm 3 nhóm tuần tự như sau:
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình rằng:
“Ye keci pāṇabhūtatthi dīghā vā rassā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình dài, thân hình ngắn, thân hình trung bình ‘không dài không ngắn’, thân tâm thường được an lạc.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác rằng:
“Ye keci pāṇabhūtatthi mahantā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình to lớn, thân hình nhỏ bé, thân hình trung bình ‘không lớn không nhỏ’, thân tâm thường được an lạc.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác nữa rằng:
“Ye keci pāṇabhūtatthi thūlā vā aṇukā vā majjhimā vā anavasesā sabbasattā bhavantu sukhitattā.”
(Mong cho tất cả chúng sinh cả thảy đó là hạng chúng sinh có thân hình mập mạp, thân hình gầy ốm, thân hình trung bình ‘không mập không gầy’, thân tâm thường được an lạc.)
Ðó là phương pháp niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh có 3 loại thân hình khác nhau trong tam giới.
Tóm lại, ba phương pháp niệm rải tâm từ: thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh tổng hợp; thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 2 nhóm; thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh có 3 nhóm. Cả ba phương pháp này đều có tâm từ mong cho tất cả chúng sinh trong tam giới, được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc gọi là hitasukhā gamapatthanāmettā: niệm rải tâm từ mong tất cả chúng sinh đều được sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.
Phần hai: Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ, mong chúng sinh không có sự thoái hóa, sự khổ não không xảy đến với chúng sinh gọi là: Ahitadukkhānagamapatthanāmettā.
Phần này, niệm rải tâm từ trong những trường hợp như sau:
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng:
“Na paro paraṃ nikubbetha.”
(Mong cho người này không lừa đảo làm khổ người kia.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng:
“Katthaci kiñci naṃ nātimaññetha.”
(Mong cho người này không khinh thường người khác bất cứ nơi nào.)
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh rằng:
“Byārosanā paṭighasaññā aññamaññassa dukkhaṃ na iccheyya.”
(Mong cho chúng sinh đừng làm khổ lẫn nhau bằng thân hoặc bằng khẩu do tâm sân oán thù.)
Ðó là phương pháp thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh, cầu mong chúng sinh không có sự thoái hóa, sự khổ não không xảy đến với chúng sinh, chỉ có sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc thường phát sinh đến tất cả chúng sinh mà thôi.
Tâm từ như thế nào?
Tâm từ là tình thương đối với tất cả chúng sinh như Ðức Phật dạy:
“Mātā niyaṃ puttaṃ, ekaputtaṃ āyusā anurakkhe yathā, evampi sabbabhūtesu aparimāṇaṃ mānasaṃ bhāvaye.”
Ví như một từ mẫu thương yêu đứa con duy nhất, bà đặt trọn vẹn tình thương yêu của mình nơi đứa con ấy, giữ gìn, dưỡng dục đứa con yêu quý độc nhất bằng sinh mạng của mình như thế nào, hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không giới hạn cũng như thế ấy.
“Uddhaṃ adho ca tiriyañca, asambādhaṃ averaṃ asapattaṃ.”
Hành giả thực hành pháp hành niệm rải tâm từ đến các cõi giới chúng sinh hướng trên 4 cõi trời vô sắc giới phạm thiên; hướng dưới 11 cõi dục giới; ở khoảng giữa 16 cõi trời sắc giới phạm thiên, với tâm từ trong thiện tâm không hẹp lượng, tỏa rộng khắp vô lượng vô biên, không có tâm sân oan trái là kẻ thù bên trong, không có kẻ thù bên ngoài. Do năng lực tâm từ vô lượng nên xóa bỏ được giới hạn ranh giới giữa các chúng sinh, giữa mình với tất cả chúng sinh đều mang tính chất đồng đẳng với nhau. Hành giả chứng đắc bậc thiền sắc giới thiện tâm với đề mục niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh không giới hạn.
Ðề mục niệm rải tâm từ này có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới thiện tâm cho đến đệ tứ thiền sắc giới thiện tâm, nhưng không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm, bởi vì đề mục niệm rải tâm từ này luôn luôn cần có chi thiền lạc; còn đệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm thì cần phải diệt chi thiền lạc thay bằng chi thiền xả. Do đó, đề mục niệm rải tâm từ không thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới thiện tâm.
“Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno vā, sayāno vā yāvatā’ssa vitamiddho, etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya. Idha etaṃ brahmaṃ vihāraṃ āhu.”
Khi hành giả đang đứng hoặc đang đi hoặc đang ngồi hoặc đang nằm mà không buồn ngủ, khi ấy tâm an trú trong bậc thiền sắc giới thiện tâm với tâm từ vô lượng.
Ðức Phật dạy: “Hành giả có bậc thiền với tâm từ đó là cách sống cao thượng.”
Tâm từ với thiền tuệ
Ðề mục niệm rải tâm từ có đối tượng chúng sinh thuộc chế định pháp (paññattidhamma), cho nên, khi hành giả thực hành pháp hành thiền định với đề mục này, chỉ có khả năng chứng đắcbậc thiền sắc giới thiện tâm, nhưng chắc chắn không thể chứng đắc Thánh đạo, Thánh quả và Niết bàn được.
Muốn chứng đắc Thánh đạo, Thánh quả và Niết bàn, hành giả cần phải thực hành pháp hành thiền tuệ, có đối tượng danh pháp, sắc pháp thuộc chân nghĩa pháp (paramatthadhamma). Vì vậy, sau khi đã chứng đắc bậc thiền sắc giới thiện tâm nào rồi, hành giả cần phải thoát ra khỏi bậc thiền sắc giới thiện tâm ấy, dùng tâm thiền hoặc chi thiền của bậc thiền ấy làm nền tảng, làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
Ðối tượng của pháp hành thiền tuệ đó là tâm thiền hoặc chi thiền của bậc thiền ấy thuộc về danh pháp, và tâm thiền ấy phát sinh do nương nhờ hadayavatthurūpa: sắc pháp là nơi sinh của ý thức tâm, thuộc về sắc pháp. Hành giả thực hành pháp hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ sự sinh sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Nhập lưu Thánh đạo, Nhập lưu Thánh quả và Niết bàn, diệt tận được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn và hoài nghi không còn dư sót nữa.
Ðức Phật dạy:
“Diṭṭhiñca anupagamma, sīlavā dassanena sampanno.”
Bậc Thánh Nhập lưu hoàn toàn không còn tà kiến chấp ngã nơi ngũ uẩn nữa, bởi do Nhập lưu Thánh đạo tuệ diệt tận được phiền não tà kiến nơi ngũ uẩn và hoài nghi không còn dư sót nữa; cho nên, bậc Thánh Nhập lưu có giới đức hoàn toàn trong sạch (có định và tuệ chưa hoàn toàn).
Bậc Thánh Nhập lưu tiếp tục thực hành pháp hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ sự sinh sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Nhất lai Thánh đạo, Nhất lai Thánh quả và Niết bàn; rồi Bất lai Thánh đạo, Bất lai Thánh quả và Niết bàn, diệt tận được hoàn toàn tâm tham ái trong ngũ dục (sắc, thanh, hương, vị, xúc) ở cõi dục giới, chỉ còn tâm tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới mà thôi.
Ðức Phật dạy:
“Kāmesu vineyya gedhaṃ.”
Bậc Thánh Nhất lai có khả năng diệt tận được tâm tham ái trong ngũ dục loại thô cõi dục giớ, còn loại vi tế chưa diệt được; đến bậc Thánh Bất lai mới có khả năng diệt tận được tâm tham ái trong ngũ dục loại vi tế cõi dục giới không còn dư sót, song tâm tham ái trong cõi sắc giới và vô sắc giới chưa diệt được. Cho nên, bậc Thánh Bất lai không tái sinh trở lại cõi dục giới, chỉ còn tái sinh lên cõi sắc giới phạm thiên và cõi vô sắc giới phạm thiên mà thôi.
Bậc Thánh Bất lai tiếp tục thực hành pháp hành thiền tuệ có danh pháp, sắc pháp ấy làm đối tượng thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh pháp sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ sự sinh sự diệt của danh pháp sắc pháp ấy, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp sắc pháp ấy, dẫn đến sự chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc A-ra-hán Thánh đạo, A-ra-hán Thánh quả và Niết bàn, diệt tận mọi tâm tham ái trong cõi sắc giới và cõi vô sắc giới không còn dư sót, sẽ tịch diệt Niết bàn ngay kiếp hiện tại ấy, không còn tái sinh trở lại kiếp sau khác nữa, chấm dứt mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Ðức Phật dạy:
“Na hi jātuggabbhaseyyaṃ puna reti.”
Hành giả thực hành pháp hành thiền tuệ có khả năng chứng đắc A-ra-hán Thánh đạo, A-ra-hán Thánh quả và Niết bàn, đã diệt tận tất cả tâm tham ái không còn dư sót rồi, trở thành bậc Thánh A ra hán, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết bàn, không còn tái sinh kiếp sau khác nữa, giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.
(Giải thích xong bài Kinh Tâm từ)
Nhận xét trước và sau bài Kinh Tâm từ
Lần trước, chưa học và hành bài Kinh Tâm từ (Mettāsutta), 500 chư tỳ khưu vào trú ngụ tại khu rừng núi, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy khổ thân khổ tâm. Nhóm chư thiên ấy đã hóa ra những cảnh tượng rùng rợn, làm cho chư tỳ khưu kinh hồn hoảng sợ, phải từ bỏ khu rừng núi ấy trở về hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin phép an cư nhập hạ ở một nơi khác.
Lần sau, học và hành bài Kinh Tâm từ này, 500 chư tỳ khưu trở lại vào trú ngụ tại khu rừng núi cũ, làm cho nhóm chư thiên ở cội cây nơi ấy thân tâm an lạc, mát mẻ do năng lực niệm rải tâm từ của chư tỳ khưu; nhóm chư thiên ấy hoan hỷ hộ trì chư tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi ấy, thân tâm thường được an lạc, tinh tấn thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới thiện tâm, và tiếp theo thực hành pháp hành thiền tuệ, tất cả 500 chư tỳ khưu đều chứng đắc đến A ra hán Thánh đạo, A-ra-hán Thánh quả và Niết bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.
Năm trăm chư tỳ khưu này là những bậc có giới đức trong sạch, có đầy đủ pháp hạnh ba la mật để chứng đắc thành bậc Thánh A ra hán, nhưng thiếu pháp hành niệm rải tâm từ để làm cho chư thiên mát mẻ, an lạc, nên chư thiên đã gây trở ngại cho việc thực hành pháp hành thiền tuệ của chư tỳ khưu. Nhưng về sau, chư tỳ khưu học và hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh không giới hạn, làm cho chư thiên ở cội cây trong khu rừng núi ấy thân tâm được an lạc, mát mẻ; thay vì làm cho chư tỳ khưu kinh hồn hoảng sợ như trước, thì chư thiên lại hoan hỷ hộ trì chư tỳ khưu an cư nhập hạ, thân tâm an lạc, tinh tấn thực hành pháp hành thiền định, thực hành pháp hành thiền tuệ, tất cả đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy. Bởi vậy cho nên, pháp hành niệm rải tâm từ là một pháp hành cần thiết hỗ trợ không những đối với hành giả thực hành pháp hành thiền định, thực hành pháp hành thiền tuệ, mà còn là pháp hành hỗ trợ cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh được thân tâm an lạc, mát mẻ trong tình thương yêu, quý mến lẫn nhau.
Ghi Chú
- 1Khuddakanikāya, bộ Suttanipāta, Kinh Mettāsutta, xin xem toàn bài kinh ở phần sau.
- 2Tam giới: Dục giới có 11 cõi, sắc giới có 16 cõi, vô sắc giới có 4 cõi.
- 34 loài chúng sinh: Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh.
- 4Bậc Thánh hữu học có 3 hạng: Bậc Thánh Nhập lưu, bậc Thánh Nhất lai, bậc Thánh Bất lai.