WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Lượt giải về 13 thiên (chương) theo thứ tự

DASA PĀRAMĪ

Tỳ khưu Hộ Tông
Bhikkhu Vansarakkhetta

Ðây xin lượt giải về 13 thiên theo thứ tự là:

Thiên thứ I: Dasavarakaṇḍa: Giải về khi Ðức Phật ngự đi đến kinh đô Kapilavatthu (Ca-Tỳ-La-Vệ), ngài hiện thần thông làm mưa, rồi Ngài thuyết truyện đức Vessantara và tiền nghiệp của nàng Supārasuppatī. Ðức Ðế Thích nhắc lời yêu cầu mà nàng Supārasuppatī, tâu xin 10 điều…

Thiên thứ II: Himabānakaṇḍa: Giải về khi nàng Supārasuppatī giáng sanh từ Ðạo Lợi Thiên cung vào lòng bà hoàng hậu của đức vua Sañjeya. Thuở ấy, đức Bồ-tát giáng sinh xuống nhân gian, ngài có danh hiệu là đức Vessantara. Bồ-tát được voi báu Paccaganāga rồi bố thí, ngài được nàng Madrī làm hoàng hậu. Nàng Madrī sanh trai Jālī và gái Kaṇhā. Bọn Bà-la-môn xứ Kalingara đến xin voi báu, đức Bồ-tát thí voi, dân chúng bất bình, dẫn nhau đến tâu xin đức vua Sañjeya xin đuổi đức Vessantara đi ngự trên núi Girīvankata.

Thiên thứ III: Dānākaṇḍa: Giải về đức Vessantara đại thí các báu vật mỗi món 7 lần, rồi lạy từ biệt vua cha và mẫu hậu. Đức vua Sañjeya ngăn nàng Madrī không cho theo chồng. Nàng Madrī trình bày về tình trạng goá chồng, đức Vessantara ngự ra đi với hoàng hậu Madrī và hai con, được nửa đường, ngài thí xe và ngựa, đồng thời cho quân hộ tống trở về.

Thiên thứ IV: Vanappavesanakaṇḍa: Giải về đức Vessantara ngự đi đến xứ Ceta. Đức vua Cetarāstha thỉnh ngài ở lại và xin nhường ngôi. Ðức Vessantara không nhận lời, ngài hỏi thăm đường đi đến núi Girīvankata, rồi từ giả đức vua Ceta, dẫn nàng Madrī và hai con thẳng lên núi Girīvankata.

Thiên thứ V: Jūjakakaṇḍa: Giải về lý lịch lão Bà-la-môn Jūjaka là kẻ ăn xin cho đến khi được nàng Amittadā là vợ. Do trai thanh niên chọc ghẹo, nói xấu và bọn Bà-la-môn nữ đánh chửi, nàng Amittadā bèn bảo lão Jūjaka đi tìm tôi trai, tớ gái. Lão Jūjaka chìu lòng vợ, đi tìm đức Vessantara để xin Jālī và Kaṇhā. Trước hết gặp Cetaputta, thợ săn bảo vệ Bồ-tát bị lão Jūjaka dùng lời dối gạt nên khỏi bị hại.

Thiên thứ VI: Cūlavannakaṇḍa: Giải về khi Cetaputta chỉ dẫn đường đến núi Girīvankata cho lão Jūjaka và dặn lão đến hỏi thăm đức Ðạo sĩ Accutta.

Thiên thứ VII: Mahavanakaṇḍa: Giải về lão Jūjaka được gặp đức Ðạo sĩ Accutta. Ðạo sĩ nghi lão đi xin Jālī và Kaṇhā. Lão Jūjaka bèn dùng lời dối gạt tự xưng là đại diện của đức vua cha Sañjeya đến thỉnh đức Vessantara về kế vị. Ðạo sĩ Accutta tin lời bèn chỉ đường cho lão Jūjaka đến núi Girīvankata.

Thiên thứ VIII: Kumārakaṇḍa: Giải về lão Jūjaka đến ngủ bên ao sen gần tịnh thất Bồ-tát. Nàng Madrī nằm mộng. Ðức Vessantara đoán điềm chiêm bao của nàng Madrī. Nàng chẳng an lòng rất lo sợ, nhưng sáng ra phải vào rừng hái trái nuôi chồng con. Lão Jūjaka vào hầu đức Vessantara Bồ-tát, cầu xin Jālī và Kaṇhā. Jālī và Kaṇhā chạy xuống ao sen trốn. Ðức Vessantara phán gọi hai con, rồi cho đến lão Jūjaka. Lão Jūjaka buộc hai tay trẻ lôi đi đánh và chửi đến khi ra khỏi rừng.

Thiên thứ IX: Madūkaṇḍa: Giải về ba vị trời hoá ra ác thú cản đường nàng Madrī. Nàng cầu khẩn xin đường về cho đến mặt trời gần lặn, ba ác thú mới mở đường. Nàng Madrī chạy thẳng về tịnh thất tìm kiếm hai con nhưng chẳng thấy, nàng tâu hỏi chồng. Ðức Bồ-tát lại quở trách. Thương hại nàng Madrī tìm con trong đêm cho đến khi té xỉu bất tỉnh dưới thang tịnh thất của chồng. Lúc bấy giờ, ngài Vessantara mới từng thuật tự sự và an ủi nàng. Nàng Madrī phát tâm hoan hỷ trong sự đại thí của chồng.

Thiên thứ X: Sakkakaṇḍa: Giải về khi đức Ðế Thích biến ra vị Bà-la-môn đến xin nàng Madrī. Ðức Vessantara rất hoan hỷ cho ngay. Vị Bà-la-môn xin gởi nàng lại cho đức Vessantara.

Thiên thứ XI: Maharājakaṇḍa: Giải về lão Jūjaka dẫn hai trẻ đến kinh đô Jetutthara. Đức vua Sañjeya chuộc hai trẻ. Trẻ Jālī tỏ bày sự khổ cực của đức Vessantara và nàng Madrī. Đức vua Sañjeya dạy sắp đặt dẫn binh đi rước đức Vessantara tại núi Girīvankata, do trẻ Jālī hướng đạo.

Thiên thứ XII: Chakathiyakaṇḍa: Giải về trẻ Jālī dẫn quân binh đến núi Girīvankata. Ðức Vessantara cùng nàng Madrī nghe tiếng quân binh đồng ra ngoài tìm xem. Ðức Sañjeya và bà Supārasuppati đến gặp đức Vessantara. Hai trẻ gặp mẹ. Tất cả sáu Hoàng gia và quân binh than khóc cho đến bất tỉnh nhân sự. Ðức Ðế Thích hoá mưa xuống cứu độ, sáu Hoàng gia và quân binh được hồi tỉnh. Đức vua Sañjeya cùng quan quân đồng thỉnh Vessantara Bồ-tát về kế vị như trước.

Thiên thứ XIII: Ugarakaṇḍa: Giải về đức Vessantara Bồ-tát và nàng Madrī hoàn tục. Cả sáu Hoàng gia sum họp dẫn binh trở về kinh đô Jetuttara, đức Vessantara lên thống trị và bổ túc ba-la-mật pháp như xưa.

Tất cả 10 truyện đức Bồ-tát tu hạnh ba-la-mật đầy đủ, trước khi được giác ngộ thành Phật. Mười tích này rất dài, các bậc trưởng thượng từ xưa hằng sùng bái, thường đem thuyết pháp trong các cuộc đại lễ, nhất là trong ngày Vu Lan bồn (từ 23 đến cuối tháng 8 trong mỗi năm). Dù là phiên dịch bằng cách vén gọn không đầy đủ chi tiết, song có thể giúp cho hàng độc giả nhận được chí tu hạnh ba-la-mật của Bồ-tát.

Bố thí ba-la-mật có năm chi: 

1) bố thí không mong được quả báo như người muốn được lợi trong sự buôn bán;

2) bố thí không có tâm dính mắc với vật thí như vật đem gửi cho kẻ khác;

3) bố thí không chú tâm tích trữ như chứa của để dành;

4) bố thí không nghĩ rằng sau khi thác sẽ được vật đã thí;

5) bố thí vì nghĩ rằng bố thí là điều tốt, cao thượng đáng làm và chơn chánh.

Bố thí của bậc thiện trí tuệ thức có năm chi: 

1) saddhāya dānaṃ deti: cho theo đức tin;

2) sakkaccaṃ dānaṃ dānaṃ deti: cho bằng sự tôn kính;

3) kālena dānaṃ deti: cho theo thời1Thí theo thời là như mùa nào có trái gì, có vật chi sanh theo mùa thì thí vật ấy.;

4) anuggahitacittena dānaṃ deti: cho bằng tâm tế độ;

5) attānañca parañca anupahacca dānaṃ deti: cho do không phá huỷ mình và người.

Phước báu của sự bố thí theo đức tin là: addho mahaddhano mahābhogo: là người sẽ được sự giàu có; abhirūpadassanīyo pāsādiko: là người sẽ xinh đẹp kiều diễm.

Phước báu của sự bố thí bằng cách tôn kính là: addho mahaddhano mahābhogo: là người sẽ được sự giàu có; sassusā: sẽ có con vợ, tôi, tớ là người dễ dạy.

Phước báu của sự bố thí theo thời là: addho mahaddhano mahābhogo: là người sẽ được sự giàu có; atthaparipūra: có lợi ích đầy đủ trong khi sắp chết.

Phước báu của sự bố thí bằng tâm tế độ là: addho mahaddhano mahābhogo: là người sẽ được sự giàu sang; ulārapañcakāmagunacitto: chỉ có tâm vừa lòng với ngũ dục tuyệt hảo.

Phước báu của sự bố thí không phá huỷ mình và người là: addho mahaddhano mahābhogo: là người sẽ được sự giàu có; bhogābhayo: không lo sợ đến của cải là quả phúc trong kiếp vị lai

Nguyên nhân bố thí có 8 điều là: āsajjadāna: sự bố thí đã chuẩn bị trước; bhayadāna: bố thí vì sợ; adāsīdāna: bố thí vì nghĩ rằng họ đã cho mình trước; dassatidāna: bố thí vì nghĩ rằng họ sẽ cho mình mai hậu; sāhudāna: bố thí và tin chắc rằng là việc tốt; pacadāna: bố thí vì nghĩ rằng ta phiền não đây do chưa được bố thí để dành từ trước; kittisaddadāna: bố thí vì mong được danh tiếng; cittālankāradāna: bố thí mong cho tâm được trang hoàng để hành pháp minh sát.

Tám cách bố thí của bậc thiện trí tuệ thức: sucidāna: cho vật trong sạch; paṇītadāna: cho vật quí; kāladāna: cho theo thời; kappiyadāna: cho vật nên cho đến bậc xuất gia; viceyyadāna: cho đến người mà mình chọn rằng là bậc đáng cho; abhinhadāna: thường bố thí, không lựa ngày; pasādadāna: có tâm trong sạch khi cho; datvādana: cho rồi thỏa thích.

Quả báo của sự bố thí: Bốn phần phước của sự thí thực phẩm trong Catukanipāta aṅguttara nikāya là: Tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, sức mạnh, trong kiếp sanh ra làm người và Chư thiên. Có Phật ngôn như vầy: Yosaññatānaṃ paradattabhojinaṃ kālena sakkaccaṃ dadāti bhojanaṃ cattāri thānāni anuppavecchati āyuñca vaṇṇaṇca sukhaṃ balañca. Āuydāyī baladāyī sukhaṃ vaṇṇaṃ dado naro dighāya yasavā hoti yattha yatthūpapajjati ‒ Kẻ nào dâng thực phẩm đến bậc chế ngự ngũ căn, thường thọ thực mà người cúng dường. Kẻ đó gọi là dâng bốn món tức là tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, sức mạnh đó. Người cho tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, sức mạnh đó hằng được sống lâu, có quyền thế trong nơi họ đi thọ sinh như vậy.

Năm quả báo của bố thí: Trong kinh Sīhasūtra có ghi năm quả báo của sự bố thí là: piyo: là nơi biết thương yêu của quần chúng; bhajo: là nơi tìm tới của người lành; kitti: có danh thơm tiếng tốt; visārado: dạn dĩ trong nơi hội họp; sugati: được thọ sinh trong cõi trời, đây ám chỉ phước báu ở kiếp vị lai.

Ðức Phật giải đáp lời hỏi của nàng Sumanā công chúa về quả báu sự bố thí.

Trong Tạng kinh quyển I, đoạn thứ bốn Pathamapaññāsaka có ghi rằng: Nàng Sumanā công chúa có 500 thiếu nữ tùy tùng vào hầu Ðức Phật, sau khi lễ bái xong, công chúa bèn bạch hỏi rằng:

Vấn: Bạch Phật! Hai vị Thinh văn của ngài đều có đức tin, trí tuệ và giới đức đồng nhau, song một vị có sự bố thí còn một vị không bố thí. Sau khi tan rã ngủ uẩn được sanh lên cõi trời, cả hai vị trời ấy có khác nhau chăng, bạch Phật?

Ðáp: Này nàng Sumanā! Hai vị trời đó khác nhau, vị có bố thí hằng được cao sang, sống lâu, sắc đẹp, an vui, có quyền tước và chủ tể hơn vị không bố thí.

Vấn: Bạch Phật! Khi hai vị trời ấy giáng sanh xuống làm người có khác nhau chăng, bạch Phật?

Ðáp: Khác nhau Sumanā! Người có bố thí hằng được phước cao hơn người không bố thí về sự sống lâu, sắc đẹp, an vui, quyền tước và chủ tể.

Vấn: Nếu hai vị ấy xuất gia, có khác nhau chăng, bạch Phật?

Ðáp: Khác nhau Sumanā! Người có bố thí hằng tốt hơn người không bố thí năm điều: đầy đủ bốn vật dụng và là nơi thương yêu vừa lòng của hàng phạm hạnh nữa.

Vấn: Nếu cả hai vị được chứng quả A-la-hán thì khác nhau chăng, bạch Phật?

Ðáp: Này nàng Sumanā! Về phần giải thoát thì không giống nhau đâu.

Vấn: Thật rất là kỳ diệu, bạch Phật! Người đời nên bố thí làm phước thật, vì quả phúc hằng có nhiều sự bảo hộ đến người và trời cùng hạnh xuất gia, bạch Phật?

Ðáp: Như thế Sumanā! Người nên bố thí và làm phước vì phước có thể che chở ủng hộ đến người, trời và bậc xuất gia. Ðức Thế Tôn bèn giảng tiếp rằng: Vầng trăng khi ra khỏi đám mây, hằng rực rỡ hơn tất cả tinh tú, thế nào, người có đức tin dứt của bố thí, có giới đức thì hằng chói lọi hơn tất cả kẻ bỏn xẻn như thế đó. Mây phát lên làm cho mưa to, nước đầy tràn ngập trong nơi ẩm thấp thế nào, chư Thinh văn của đức Chánh đẳng Chánh giác là hạng nhiều sự hiểu biết, là bậc hiền minh hằng đè nén kẻ rít róng do năm điều là: tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, quyền tước và chủ tể, thế đó. Những người có của hằng được cao sang trên cõi trời như vậy.

Ðây chỉ cho ta thấy rằng bốn thiện pháp là: Ðức tin, trì giới, trí tuệ cho thọ sinh trong cõi người và trời như nhau. Chỉ có quả bố thí khác hơn là cho tuổi thọ, sắc đẹp, an vui, quyền tước và chủ tể được cao quí. Quả phúc sự dứt bỏ của cải ra bố thí đó hằng được đầy đủ của cải và hạnh phúc. 

‒ Dứt tác phẩm Thập độ (Pl.2505-Dl.1961 ‒

  • 1
    Thí theo thời là như mùa nào có trái gì, có vật chi sanh theo mùa thì thí vật ấy.