WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Vấn đáp về Sắc

Vi Diệu Pháp Vấn Đáp
Prasnā Abhidhamma

Tỳ khưu Hộ Tông
Bhikkhu Vansarakkhetta

RŪPAPAÑHĀ

Vấn: Sắc dịch như thế nào?

Đáp: Sắc dịch là tiêu huỷ1Hao mòn tan nát. hoặc hư hỏng mòn mỏi do các diệt duyên2Duyên cớ tiêu diệt. nhứt là sự lạnh và sự nóng, cớ ấy nên Đức Phật có giải rằng: Này các tỳ khưu! Các thầy phân biệt rằng sắc tiêu huỷ ấy do cớ chi; Đức Thế Tôn hỏi rồi tự đáp rằng: Này các tỳ khưu! Sắc hao mòn do nguyên nhơn như vầy: tiêu huỷ vì sự lạnh, sự nóng, sự đói, sự khát, sự tiếp xúc, ruồi lằng, muỗi, gió, nắng và các loại rắn nhỏ, lớn. Này các thầy tỳ khưu! Sự tiêu huỷ mà Như Lai đã kể ấy gọi là sắc vậy. Lại nữa, sắc dịch là biến đổi, trói buộc, phá hại hoặc dịch là tan rã cũng được.

Vấn: Sắc có chi là tướng?

Đáp: Có cử chỉ tan rã là tướng.

Vấn: Thân thể chúng sanh tiêu huỷ do sự lạnh ấy thuộc về hạng nào, ở trong nơi nào?

Đáp: Về hạng chúng sanh ở trong không gian địa ngục (lokantaranaraka).

Vấn: Không gian địa ngục ấy, ở nơi nào? Hình trạng ra sao?

Đáp: Không gian địa ngục ở trong khoảng 3 châu thế giới, châu vi 8.000 do tuần, không có đất nâng đỡ, không có ánh sáng mặt trăng, mặt trời và ánh sáng của các thứ ngọc chiếu đến; không gian địa ngục thường tối tăm luôn.

Vấn: Chúng sanh trong không gian địa ngục hình thể bao lớn, thọ khổ như thế nào?

Đáp: Chúng sanh ấy hình thể to lớn 12.000 thước, chịu khổ thái quá, có móng dày và dài, dộng đầu xuống như loài dơi, khi nào gặp nhau thì quấn chặt lấy nhau, và nghĩ rằng ta được món ăn rồi, tính như thế bèn vẫy vùng sút chân rớt trong nước nâng thế giới, đến khi có gió lạnh quạt nhằm thì rớt tự nhiên, như trái thị chín mùi, rụng khỏi cây vậy, rớt xuống thì da xương gân, thịt điều tiêu tan vì nước lạnh và mặn, như cục thịt bỏ vào trong dầu thật sôi, hằng tiêu tan vậy. Hình thể chúng sanh tiêu huỷ do sự lạnh như đã giải ấy, chẳng phải chỉ có thế thôi, dầu sắc thân chúng sanh trú trong nơi ẩm thấp, quá lạnh, như xứ địa cực3Hai đầu trái đất. cũng phải tiêu diệt, do sự lạnh vậy.

Vấn: Hình thể tiêu huỷ do sự nóng ấy, thuộc về hạng chúng sanh nào?

Đáp: Về hạng chúng sanh chịu khổ trong vô gián đại a tỳ địa ngục (avicīmahānaraka)4Địa ngục lớn hằng có tội nhân chịu khổ luôn khôn dứt, không gián đoạn. nằm trên bàn chông bằng đồng nóng cực điểm, không thế vay trở được, ví như chúng sanh bị người đóng dinh 2 tay 2 chơn và giữa ngực, không sao cử động được.

Vấn: Sắc thân tiêu huỷ vì sự đói, do mấy duyên cớ và thuộc về hạng chúng sanh nào?

Đáp: Do 2 cớ là: trong loài ngạ quỉ và trong cơn đói kém.

Vấn: Tiêu huỷ trong loài ngạ quỉ như thế nào?

Đáp: Lệ thường, chúng sanh đọa làm ngạ quỉ, dầu trải qua 3, 4 Đức Phật giác ngộ trong thế gian, cũng chẳng được chút ít thực phẩm nào cả, bụng trống không như cây có bộng bị lửa cháy luồn vậy.

Vấn: Chúng sanh tiêu huỷ vì sự đói kém như thế nào?

Đáp: Trong xứ bị hạn5Nắng lâu không mưa. không có nước, mất mùa, hoặc bị nước lụt, tìm kiếm thực phẩm không được, dầu là nước cơm cũng chẳng có, sự chết vì cơn đói kém hằng hà sa số.

Vấn: Chúng sanh tiêu diệt do sự khát như thế nào?

Đáp: Loại ngạ quỉ Kañjikapreta, dầu sống đến 2,3 đời Phật giác ngộ cũng chẳng được uống một nhỏ nước vào bụng, nếu ngạ quỉ ấy đến trong nơi có nước, nơi ấy trở nên khô khan, không còn nước, đi xuống biển, biển cũng khô.

Vấn: Sắc thân tiêu huỷ do sự đụng chạm như thế nào?

Đáp: Những chúng sanh chết vì sự đụng chạm là muỗi, bò mắt, ruồi lằng, v.v…

Vấn: Chúng sanh chết vì gió như thế nào?

Đáp: Khi gió phía trong và phía ngoài quạt không đều thì làm cho sắc thân phải tiêu huỷ.

Vấn: Sắc có mấy thứ?

Đáp: Có 2 thứ: tứ đại sắc (mahābhūtarūpa) và sắc nương theo tứ đại (upadāyarūpa).

Vấn: Tứ đại sắc có mấy?

Đáp: Có 4 là: đất (pathavīdhātu), nước (apodhātu), lửa (tejodhātu), gió (vāyodhātu).

Vấn: Chất đất có mấy thứ?

Đáp: Có 20 thứ là:

1) Tóc (kesā) có 9 triệu sợi, màu đen, gốc mọc sâu trong da đầu, bằng đầu hột thóc, 1 sợi tóc chỉ mọc trong một lỗ. Bậc có trí tuệ nên quán tưởng theo pháp ô trọc đề mục thiền định patikūlakammaṭṭhāna rằng: là vật đáng nhớp nhúa, có 5 điều là: nhớp nhúa vì màu, nhớp nhúa vì xứ (miền), nhớp nhúa vì mùi, nhớp nhúa vì chỗ sanh, nhớp nhúa vì chỗ trú. Dạy phải quán tưởng như người dùng thực phẩm khi thấy tóc rớt vào trong món ăn, thì nhờm gớm, lấy bỏ ra không sao ăn được. Tóc là vật thương yêu vừa lòng, chỉ khi còn mọc trên đầu, đến lúc rụng rớt xuống giờ nào rồi, hằng có sự ghê gớm thái quá. Tóc mọc trên đầu, tẩm trong mũ, máu, nhớt, v.v… ví như rau hoặc cỏ mọc gần cầu xí là vật dơ bẩn, đáng nhờm gớm lắm.

2) Lông (lomā) có 9 triệu sợi, màu trắng hoặc vàng hoe, hay đen, ví như rễ cây thốt nốt, Lông mọc trong khắp cả da mình, trừ ra chỗ có tóc, lòng bàn tay và lòng bàn chân. Gốc mọc trong da độ bằng trứng chí, trong mỗi lỗ mỗi sợi. Lông ấy là ô trọc đề mục thiền định, do theo 5 điều như đã giải trong tóc vậy.

3) Móng (nakhā) có 20, màu như vảy cá, mọc nơi đầu 10 ngón tay và 10 ngón chân, cũng là ô trọc đề mục thiền định, do 5 điều giống nhau.

4) Răng (dantā) có 32, đối với người có nhiều căn lành, người ít phước chỉ có 24, hoặc 29 cái. Răng có màu trắng, có hình thể khác nhau. Răng mọc từ xương hàm trên và hàm dưới là nơi nhớp nhúa, xấu xa, dính đàm, máu, nước miếng và vật uế trược cũng có. Nếu không rửa chà, không súc miệng thì có mùi hôi thúi đáng nhờm gớm lắm. Răng đã mọc rồi thì hằng rụng trở lại là lệ thường, chẳng có sự quí báu chi cả. Răng ấy cũng là ô trọc đề mục thiền định do 5 điều giống nhau.

5) Da (taco) nếu lột da ngoài ra khỏi mình cuốn tròn lại bằng trái táo, có màu sắc khác nhau, có chỗ trắng, vàng, đỏ. Da bao thịt giống như ổ kén, da chân giống như người mang dớ, da ống quyển như người lấy lá thốt nốt đem bó, da bấp vế như cái đãy mà người dồn đầy gạo, da bàn toạ như vải lược nước, da lưng như da người ta bao dán, da bụng như da bao trống, da ngực có hình trạng 4 góc, da 2 tay như da họ bao ống tên, da lưng tay như da vỏ dao cạo, da bao thân như đãy đựng chìa khoá, da cổ giống như nan tre đương làm ống nối tiếp nhau, da miện như ổ cào cào, da đầu như áo bát, da ấy là vật nhơ nhớp, do 5 điều như đã giải.

6) Thịt (mamsaṃ) có 900 cục, màu đỏ, có hình trạng khác nhau. Thịt ống quyển giống như lá thốt nốt gói tròn rồi để dành, thịt bắp vế như chày đá, thịt bàn toạ như cục đá ông táo, thịt bắp vế như đường táng, thịt xương sườn như đất sét trét vách đất, thịt vú như đất người treo để dành, tất cả 900 cục thịt ấy giống như người bó chung với 300 lóng xương. Thịt dưới dính với xương, thịt trên dính với da, cả thảy thịt ấy chẳng có sự quí trọng chi cả, đều là vật nhơ nhớp, xấu xa, đáng nhờm gớm lắm.

7) Gân (nhārū) có 900 sợi đều là màu trắng, buộc rịt cả 300 lóng xương, giống như máy móc mà người chằng với giây máy, gân lớn kết theo xương sườn bên tả 5 sợi, bên hữu 5 sợi. Gân lớn kết theo xương lưng bên tả 5 sợi, bên hữu 5 sợi, các gân lớn đều hợp lại với nhau ở nơi cổ. Gân lớn chạy dính theo tay mặt, tay trái mỗi bên là 10 sợi, lưng tay 5 sợi, lòng bàn tay 5 sợi, gân lớn xiềng theo mỗi chân 5 sợi v.v…

8) Xương (aṭṭhi) có 300: xương trán 1, xương mũi 1, xương đầu 1, xương ót 1, xương màng tang 2, xương đỉnh đầu 2, xương mắt 2, xương tai 2, xương cằm 2, xương ức 3, xương sườn 24, xương đòn gánh 2, xương bả vai 2, xương cánh tay 2, xương cánh tay phía ngoài 2, xương cùi chỏ 2, xương cổ tay 16, xương bàn tay 10, xương lóng tay 28, xương hông 2, xương đùi 2, xương đầu gối 2, xương ống chân chính 2, xương ống chân phụ 2, xương cổ chân 14, xương bàn chân 10, xương lóng chân 28, xương non dính theo tứ chi 64, xương cổ 7, đốt xương sống 12, xương ngang lưng 5, xương mông 5, xương cụt 6, v.v… Các xương ấy toàn màu trắng có hình trạng khác nhau là vật đáng ghê gớm lắm.

9) Tuỷ trong xương (aṭṭhimiñjam) màu trắng ở trong cả 300 lóng xương, nếu xương lớn thì tuỷ nhiều, xương nhỏ tuỷ ít, ví như mây mà người hơ lửa cho chín lấy vỏ ra rồi để vào ống tre vậy.

10) Trái cật (vakkam) có màu đỏ.

11) Trái tim hoặc tâm (hadayaṃ) ở giữa chặn đầu ngực, màu đỏ hình trạng giống như bông sen chưa nở, nếu người có trí tuệ, mẫn tiệp thì trái tim nở chút ít; người dốt nát trái tim giống như hoa sen héo; bên trong có nước hộ trì tâm, lối một bụm tay; nếu người có tính tham nhiều, nước hộ trì tâm đỏ, người có tính sân hận nhiều nước ấy đen, người có tính si nhiều, nước ấy đỏ dợt giống như nước rửa thịt; ngưới có tính tuệ nhiều, nước ấy trong như ngọc mani.

12) Gan (yakanaṃ) màu đỏ giống như hoa sen đỏ, trú bên hông mặt, hình tượng như lá dông, nếu người có trí tuệ thì phía dưới lá gan rẻ ra; người vô trí thức: lá gan không rẻ ra.

13) Màng (kilomakaṃ) có 2 thứ là: màng bao gan, phổi, tim và màng bao 300 lóng xương.

14) Dạ dày (pihakaṃ) màu giống như lưỡi bò con đen.

15) Phổi (papphasaṃ) có hình trạng như 33 cục thịt dính với nhau, đỏ dợt; người đói, không ăn vật chi thì chất lửa đốt nóng đến phổi phải khô héo; nếu có dùng thực phẩm đầy đủ thì chất lửa đốt tiêu cả vật thực, phổi trở nên tươi tốt như thường.

16) Ruột già (antaṃ) người nam ruột già dài 32 hắc, người nữ dài 24 hắc, khoanh làm 24 khoanh, trên từ cổ xuống đến giang môn, màu trắng. Trong ruột già có lẫn lộn cả thảy 32 loài sán trùng, bò tới lui trong ruột già. Nếu không có thực phẩm, những loại trùng ấy cất đều lên loi nhoi làm động tới gan, tim, phổi. Khi người được dùng một, hai miếng cơm, loài trùng ấy đến dành nhau ăn. Loại trùng ấy thường sanh ra rồi chết trong ruột già, ví như người chặt đầu rắn rồi chất chồng lại để trong một nơi nào vậy.

17) Ruột non (antagunaṃ) dính liền với ruột già, nếu người làm công việc nặng nề thì ruột non dùng, ruột già cũng dùng theo; người ở không, ruột non rút rịt ruột già.

18) Thực phẩm mới (udariyaṃ) khi vật ăn đến chót lưỡi, trộn với nước miếng lỏng, vào đến góc lưỡi trộn với nước miếng đặc thì mùi ngon bay mất, vào đến bao tử vật ăn trở nên ghê gớm, ví như đồ chó mửa, hoặc cơm ngâm với chỉ. Vật ăn đến bao tử rồi lẫn lộn với nước dơ nhớp, nếu người có đàm nhiều thì thực phẩm ấy xanh; có mũ nhiều thì thực phẩm lẫn lộn với nước thúi; có máu nhiều thực phẩm đỏ. Chất lửa đốt thực phẩm sôi trào lên có bọt rồi các loài trùng dành nhau ăn. Thực phẩm vào bao tử chia ra làm 5 phần: phần về trùng ăn; phần về chất lửa đốt; phần thành phẩn; phần thành nước tiểu, nước dơ; phần thành thịt, da, máu.

19) Thực phẩm cũ (karisaṃ). Chất lửa đốt cho nhiễn như đâm giả bằng đá nhiễn, rồi chảy vào ruột già đặc thành cục, trú phía dưới ruột già, ví như nồi tre dài bằng ngón tay đầy những đất, thế nào, thực phẩm cũ cũng giống như đất mà người đựng trong ống tre đó vậy.

20) Óc (matthakemattaliṅgaṃ) tròn như bánh, đồ ăn vào dầu ít hay nhiều cũng chia ra làm 5 phần như đã giải, vật ăn mà chất lửa đốt sôi lên, ví như nồi cơm sôi. Lệ thường cơm sôi hằng làm cho bọt cơm giăng lấm dính miệng nồi, thế nào, thực phẩm đã ăn vào bị chất lửa đốt sôi lên dính lấm lỗ tai, mắt, lỗ mũi, cũng như thế ấy; bọt thực phẩm mà chất lửa đốt lên dính lấm lỗ mũi, lỗ tai, mắt gọi là cứt mũi, cứt ráy, ghèn, nếu dính răng gọi là cứt răng, tiêu ra đường đại gọi là phẩn. Phần đã tiêu hoá tốt đem bổ dưỡng thân thể cho tráng kiện. Tuỷ trong óc ví như bột vò thành cục, màu trắng như 3 củ khoai non hoà nhau ở trong óc, đáng ghê gớm lắm. Bực trí tuệ nên quán tưởng lửa thiêu tử thi thế nào, óc của con người cũng giống như thế ấy chẳng khác nhau đâu.

Vấn: Chất nước có mấy? Là những cái chi?

Đáp: Có 12 thứ là:

1) Mật (pittaṃ) có 2 thứ. Mật chứa (baddhapittaṃ) trong khoảng lá gan, tim, phổi, nếu mật ấy chuyển động thì con người phải điên, không còn biết chi cả. Mật lang6Lẫn ở chỗ nầy chỗ khác, không nhứt định. (abaddhapittaṃ) thấm vào khắp châu thân, trừ tóc, lông và móng thôi. Mật này động thì làm cho mắt đỏ, chóng mặt, thân tâm rung rẩy.

2) Đàm (seṃhaṃ) ở trong dạ dày con người, đầy một bát, khi vật ăn vào khỏi cổ vẹt đàm ra từng khoảng chìm xuống trong phía bao tử, rồi gạn lại như thường, ví như người liệng cục đất trong hồ có đầy những rong, rong vẹt ra chừa khoảng cho cục đất chìm xuống, rồi gom bít lại cũng như thế ấy. Đàm che đậy mùi hôi của vật ăn trong dạ dày, không cho bay hơi lên được, ví như ván đậy cầu xí không cho bay mùi hôi lên, thế nào, đàm che mùi thúi trong dạ dày không cho lên hơi cũng như thế ấy?

3) Máu (lohitaṃ) có 2 thứ là: máu chảy cùng khắp bộ phận trong thân thể (samsāranalohita); máu đọng ngưng tụ (sannicittalohita). Máu đọng đặc ở trong bao tử lên tới phổi, gan, tim, nếu máu ấy không ngập đến gan, phổi, tim giờ nào thì làm cho chớn thuỷ nóng nảy, bào bọt trong giờ ấy, nếu máu ấy có đầy đủ như lệ thường thì chớn thuỷ mát mẻ an vui. Màu nó giống như dầu mè trong.

4) Mủ (pubbo) màu đỏ trắng hoặc vàng khác nhau.

5) Mồ hôi (sedo) ở trong tất cả lỗ lông, trong như dầu mè, khi bị nóng nực thì mồ hôi chảy ra theo các lỗ lông.

6) Mỡ đặc (medo) màu vàng như nghệ, ở chỗ khoảng giữa da và thịt, người gầy mỡ ít, béo mỡ nhiều.

7) Nước mắt (assu) giống như dầu trong, ở trong con mắt, nếu có sự khổ bất bình thì nước mắt chảy ra, hoặc cười thái quá, hoặc buồn ngủ thái quá cũng làm cho nước mắt chảy ra vậy.

8) Mỡ lỏng (vasā) màu giống như dầu dừa, ở trong da bụng, mũi, trán, và vai. Khi người bị nóng nực, mỡ lỏng chảy thấm khắp cả mình.

9) Nước miếng (khelo) màu trắng, khi thấy vật đáng gớm nhờm, hoặc thấy người ăn vật chi ngon rồi phát thèm, hoặc khi ăn đồ chua, mặn, cay thì nước miếng chảy ra, hoặc tự nhiên chảy ra cũng có, không có nước miếng thì khô cổ, không được an vui. Nước miếng lỏng ở chót lưỡi, nước miếng đặc ở góc lưỡi, nước miếng thường chảy ra luôn, ví như giếng cát không bao giờ khô cạn, thế nào, nước miếng con người hằng từ trong miệng chảy ra không dứt, cũng ví như giếng cát kia vậy.

10) Nước mũi (saṅkhānikā) màu trắng giống như trái thốt nốt non, nếu người có bịnh chảy mũi, ho, thì nước mũi chảy ra theo lỗ mũi rất đáng nhờm gớm.

11) Nhớt (lasikā) ở trong các khớp xương ít nhớt thì đi, đứng, nằm, ngồi không được mau lẹ và hay kêu rắc rắc; nhớt nhiều không nghe kêu và cử động lẹ làng.

12) Nước tiểu (muttaṃ) ở trong bàng quang, khi bàng quang đầy thì mắc tiểu tiện, nước tiểu là vật đáng gớm.

Vấn: Chất lửa (tejo) có mấy thứ?

Đáp: Có 4 thứ là: 

1) chất lửa làm cho thân thể nóng, không mát mẻ (santappaggi); 

2) chất lửa làm cho bứt rứt khó chịu (pariday haggi); 

3) chất lửa làm cho thân hao mòn, già yếu, mắt lờ, tai lãng, răng long, tóc bạc, thịt teo (jaraṇṇaggi); 

4) chất lửa đốt thực phẩm cho tiêu hoá (pariṇāmaggi).

Vấn: Chất gió (vāyo) có mấy thứ?

Đáp: Có 6 thứ là: 

1) gió quạt từ đầu bàn chơn đến khắp châu thân (uddhañgamāvāta); 

2) gió quạt từ đầu đến bàn chân (addhogamāvāta); 

3) gió quạt qua lại trong bụng (kucchissayāvāta); 

4) gió quạt trong ruột già và ruột non (kotthāsayāvāta); 

5) gió quạt khắp cả thân thể (angānusārivāta); 

6) gió thở ra, vô (assāsapassāsa).

Chất đất 20, chất nước 12, chất lửa 4, chất gió 6, cọng tứ đại sắc thành 42 là nơi to lớn hơn cả, là nơi nương nhờ của các sắc khác.

Vấn: 24 upadāyarūpa7Sắc nương theo tứ đại sắc. là cái chi?

Đáp: Là: 5 giác quan sắc (pasādarūpa)8Cơ quan trong thân thể giúp cho mình hiểu biết được., 4 cảnh giới sắc (visayarūpa)9Khoảng không., 2 thân sắc (kāyarūpa), 1 tim sắc (hadayarūpa), 1 mạng sắc (jivitarūpa), 1 thực phẩm sắc (āhārarūpa), 1 khoảng sắc (paricchedarūpa), 2 động sắc (viñnattirūpa), 3 biến sắc (vikārarūpa), 4 tướng sắc (lakkhanarūpa). Cộng thành: 24 sắc.

Vấn: 5 giác quan sắc là cái chi?

Đáp: Là: thị giác quan, thính giác quan, khứu giác quan, vị giác quan, xúc giác quan.

Vấn: Thị giác quan như thế nào?

Đáp: Thị giác quan có hình trạng đen, bằng đầu con chí ở giữa mống mắt, thị mắt có 7 lớp chập chồng nhau, nếu không có thị giác, gọi là mù…

Vấn: Thị giác quan có chi là tướng?

Đáp: Có sự trong sạch của tứ đại vừa chận ngăn cảnh giới là tướng, có sự trong sạch của tứ đại sắc do nghiệp mà sanh, có trạng thái trong sạch muốn xem là tướng.

Vấn: Thị giác quan có chi là sự?

Đáp: Có cử chỉ níu cái thức và mình người đi trong cảnh giới là sự.

Vấn: Thị giác quan có chi là quả?

Đáp: Có cử chỉ trú ở tốt đẹp không biến đổi, cho kết quả, tức là hộ trì nhãn thức để dành là quả.

Vấn: Cái chi là cận nhân10Dịch là nhơn gần hoặc mau chóng, nghĩa là thấy nghe, được mau lẹ. (āsannahetu)?

Đáp: Có tứ đại sắc là nghiệp nhơn (kammasamuṭṭhāna) là do sự thấy là căn nhơn hoặc cận nhơn.

Vấn: Thính giác quan như thế nào?

Đáp: Thính giác quan có hình trạng vi tế bằng lông cừu khoanh tròn ở trong 2 lỗ tai để nghe tiếng, nếu không có thính giác là điếc.

Vấn: Thính giác quan có chi là tướng?

Đáp: Có sự trong sạch của tứ đại sắc vừa đến cử chỉ chận ngăn tiếng là tướng. Lại nữa, có sự trong sạch của tứ đại sắc, sanh từ nơi nghiệp, có cử chỉ muốn tìm nghe là nhơn, là tướng.

Vấn: Thính giác quan có chi là sự?

Đáp: Có cử chỉ níu cái thức và mình người đi trong thính cảnh là sự.

Vấn: Thính giác quan có chi là quả?

Đáp: Có cử chỉ trú ở, không biến đổi, cho kết quả tức là hộ trì thính giác để dành là quả.

Vấn: Thính giác quan có chi là cận nhơn? Đáp: Có tứ đại sắc, sanh từ nơi nghiệp, có sự muốn nghe là căn nhơn, là cận nhơn.

Vấn: Khứu giác quan như thế nào?

Đáp: Khứu giác quan ví như chưn con dê, ở trong lỗ mũi để hít hoặc hút mùi cho biết là thơm hoặc thúi, nếu không có khứu giác quan cũng không sao biết mùi được.

Vấn: Khứu giác quan có chi là tướng? Đáp: Có cử chỉ trong sạch của tứ đại sắc, vừa đến cử chỉ chận ngăn mùi là tướng. Lại nữa, có sự trong sạch của tứ đại sắc, sanh từ nơi nghiệp, có sự muốn hửi là tướng.

Vấn: Khứu giác quan có chi là sự?

Đáp: Có cử chỉ níu cái thức và mình người đi trong tỉ cảnh là sự.

Vấn: Khứu giác quan có chi là quả?

Đáp: Có cử chỉ trú ở không thay đổi, cho kết quả tức là hộ trì tỉ thức là quả.

Vấn: Khứu giác quan có chi là cận nhơn?

Đáp: Có tứ đại sắc, sanh từ nơi nghiệp, có sự muốn hửi là cận nhơn.

Vấn: Vị giác quan như thế nào?

Đáp: Vị giác quan có hình trạng như mũi ghim con nhím ở giữa lưỡi, là nhơn cho biết các vị ngọt, đắng, chát, chua, cay, mặn… nếu không có vị giác quan cũng không sao biết vị được.

Vấn: Vị giác quan có chi là tướng?

Đáp: Có sự trong sạch của tứ đại sắc vừa đến cử chỉ nếm vị là tướng.

Vấn: Vị giác quan có chi là sự?

Đáp: Có cử chỉ níu cái thức và mình người đi trong vị cảnh là sự.

Vấn: Vị giác quan có chi là quả?

Đáp: Có cử chỉ trú ở, không thay đổi, cho kết quả, tức là bảo tồn thiệt thức là quả.

Vấn: Vị giác quan có chi là cận nhơn?

Đáp: Có tứ đại sắc, sanh từ nơi nghiệp, có sự muốn nếm là cận nhơn.

Vấn: Xúc giác quan như thế nào?

Đáp: Xúc giác quan trú khắp thân thể, là nhơn cho biết những cái chi đụng chạm nhằm, tức là cho biết mềm, cứng.

Vấn: Phạm vi sắc11Sắc ở trong khoảng có giới hạn. (visayarūpa) có 4 là cái chi?

Đáp: Là: sắc cảnh, thinh cảnh, hương cảnh, vị cảnh. Giải: sắc cảnh nói về các sắc, dù là vô thức hoặc hữu thức, rồi, nhìn lấy làm cảnh giới của tâm, trú trong nhãn môn, đều gọi là sắc cảnh; thinh cảnh về phần các thứ tiếng, thanh hoặc thô, rồi lấy làm cảnh giới của tâm, trú trong nhĩ môn, đều gọi là thinh sắc; hương cảnh là các mùi nhứt là mùi thơm hoặc thối, rồi lấy làm cảnh giới của tâm, trú trong tỉ môn đều gọi là hương sắc; vị cảnh là các vị nhứt là vị ngọt hoặc mặn đã dùng, rồi lấy làm cảnh giới của tâm, trú trong thiệt môn, đều gọi là sắc. Cộng là 4 cảnh gọi (visaya rūpa) phạm vi sắc.

Vấn: Thân sắc (kāyarūpa) có 2, là cái chi?

Đáp: Là: nữ trạng sắc12Hình dáng bề ngoài của người nữ. (itthībhāvarūpa) và nam trạng sắc (purisabhāvarūpa). Nữ trạng sắc là hình trạng người nữ hoặc khí cách13Phẩm cách con người. là người nữ. Nam trạng sắc là hình trạng người nam hoặc khí cách người nam.

Vấn: Tim sắc (hadayarūpa) giải như thế nào?

Đáp: Nói về trái tim, nghĩa là trước đã khép trái tim vào với tứ đại sắc, sau lại giải lần nữa, vì thịt này là nơi trú của tâm, cao quí hơn tất cả cục thịt.

Vấn: Sinh mạng sắc (jīvitarūpa) như thế nào?

Đáp: Nói về 2 sắc: sắc sinh mạng căn và vô sắc sinh mạng căn (rūpajīvitindriya arūpajīvitindriya). Sắc sinh mạng căn thuộc về 32 bộ phận (ākāra)14Tóc, lông, móng, răng, da v, v… hợp nhau chia thành căn, gọi sắc sinh mạng căn. Vô sắc sinh mạng căn thuộc về tâm vương và tâm sở chia thành căn.

32 bộ phận chia riêng ra gọi là: tóc, lông, móng, răng, da v.v… nếu hợp lại theo tứ đại thì gọi là địa đại (pathavīdhātu), thuỷ đại (āpodhātu), hoả đại (tejodhātu). 3 đại này hợp nhau lại gọi là sắc sanh mạng căn.

Vấn: Thực phẩm sắc (āhārarūpa) như thế nào?

Đáp: Thực phẩm sắc nói về những món ăn mỗi ngày như là: cơm, nước, bánh thịt, cá v.v… chia thành sắc gọi là thực phẩm sắc, nhưng khi chưa ăn vào thì không gọi là thực phẩm sắc được. Nếu đã ăn vào rồi, thực phẩm ấy thấm khắp thân thể, gọi là thực phẩm sắc, vì tinh tuý bổ dưỡng của thực phẩm mà mình đã ăn vào trong buổi sáng đó, thấm nhuần khắp châu thân. Nếu nằm mộng lúc gần rạng đông là sự nằm mộng hay hơn hết, vì trong giờ đó tinh tuý bỗ dưỡng của thực phẩm đã thấm nhuần đều đủ, phát tâm an lạc, thí như các loài thảo mộc nẩy nở tươi tốt trong lúc gần sáng, nhờ vị của đất thấm nhuần lên khắp nhánh, lá nghĩa là, khi mặt trời lặn, vị đất thấm từng tí cho đến gần sáng, thì tinh tuý bổ dưỡng đều đủ các nhánh, lá, đến khi sáng, vị đất giảm thì lần, những cây khô héo úa màu trở lại, cũng vì vị của đất thấm nhuần không thấu, thế nào, thân thể chúng ta cũng như thế đó, nếu thực phẩm không thấm nhuần khắp thì trở thành người ốm o, màu da ủ dột. Nếu thực phẩm thấm nhuần được thì thân mình tươi tốt, được điều hạnh phúc là nơi vừa lòng đẹp ý. Thực phẩm là lợi khí ủng hộ, nâng đỡ sắc, nên kể là sắc, là thực phẩm sắc (āhārarūpa).

Vấn: Vì sao gọi là khoảng sắc (paricchedarūpa)?

Đáp: Nói về khoảng không tức là: lỗ mũi, lỗ tai, lỗ miệng kể là sắc, gọi là giới hạn sắc.

Vấn: 2 động sắc (viññattirūpa) như thế nào? 

Đáp: 2 động sắc là: thân động (kāyaviññati) và khẩu động (vācīviññatti). Thân động là nói về thân thể lay chuyển vì 4 oai nghi (nằm, ngồi, đứng, đi). Khẩu động tức là nói ra lời, như tụng, đọc kinh v.v…gọi là khẩu động.

Vấn: 3 biến hoá sắc (vikārarūpa) như thế nào?

Đáp:

1) Trạng thái sắc nhẹ (rūpassalahutā) nghĩa là khi hành một việc gì, dù là lành hay dữ, thì thân thể nhẹ nhàng, làm các công việc đó được mau lẹ như ý muốn, gọi là trạng thái sắc nhẹ.

2) Trạng thái sắc dịu mềm (rūpassamudutā) nghĩa là thân thể không cứng, biết chiều theo, hướng về trong các công việc làm.

3) Trạng thái thích hợp sắc (rūpassakammaññatā) nghĩa là khi người làm việc chi, nếu có sự thích hợp rồi, làm công việc đó không mỏi mệt,

Vấn: 4 tướng sắc (lakkhanarūpa) như thế nào?

Đáp: Là:

1) Sắc đầu tiên (rūpassa uccago) nghĩa là sắc đi thọ sanh dùng: đại địa, đại thuỷ, đại hoả, đại phong sanh thành sắc.

2) Liên tiếp sắc (rūpassasantati) là sắc sanh tiếp tục nhau cho tiến hoá thành người nam, nữ.

3) Lão sắc (rūpassajaratā) là sắc già yếu, như răng long, tóc bạc.

4) Vô thường sắc (rūpassa aniccatā) là sắc sanh lại không thường, hằng tiêu hoại trở lại.

Dứt tóm tắt 28 sắc, là: tứ đại sắc (mahābhūtarūpa) và 24 căn cứ sắc15Sắc dựa vào tứ đại sắc. (upādāyarūpa).

Vấn: Như thế nào gọi là quá khứ sắc (atītarūpa), vị lai sắc (anāgatarūpa), hiện tại sắc (paccuppannarūpa)?

Đáp: Quá khứ sắc là sắc đã sanh, qua khỏi rồi; vị lai sắc là sắc chư đến; hiện tại sắc là sắc sanh trong thời bây giờ. Vị lai sắc, nói về sắc đầu tiên, là sắc sanh trước hết; vị lai sắc chỉ về lão sắc, và vô thường sắc là sắc sẽ sanh; hiện tại sắc tức là liên tiếp sắc, sắc đang sanh nối tiếp.

Vấn: Nội sắc (ajjhattikarūpa) có mấy?

Đáp: Nội sắc, sắc ở trong tức là ngũ giác quan (pasādarūpa) nhứt là thị giác quan (cakkhupasāda) gọi là nội sắc.

Vấn: Ngoại sắc (bahiddhārūpa) như thế nào?

Đáp: Ngoại sắc là sắc ở ngoải ngũ giác quan.

Vấn: Thô sắc (olārikarūpa) như thế nào?

Đáp: Là sắc to lớn, cục kịch, nói về 7 sắc: sắc cảnh, thinh cảnh, hương cảnh, đất, nước, lửa, gió, cộng chung với ngũ giác quan sắc, thành 12 (7+5 = 12) gọi là thô sắc.

Vấn: Tinh vi sắc (sukhumarūpa) như thế nào?

Đáp: Là sắc nhỏ nhặt, nói về những sắc ngoài 12 sắc đã giải, gọi là tinh vi sắc.

Vấn: Hạ sắc (hīnarūpa) như thế nào?

Đáp: Là sắc thấp, nhỏ, hèn, nói về sắc do ác nghiệp mà sanh, nhứt là: mù, điếc, câm, v.v… gọi là hạ sắc.

Vấn: Ưu tú sắc (paṇītarūpa) như thế nào?

Đáp: Là sắc tốt đẹp hơn hết, đem sự ưa thích đến người, như chư thiên và người sanh do thiện nghiệp.

Vấn: Như thế nào gọi là viễn sắc (dūrerūpa)?

Đáp: Là sắc xa, nói về thị giác quan và thính giác quan, vì 2 sắc này dụng nạp cảnh giới trong nơi xa được, gọi là viễn sắc.

Vấn: Cận sắc (santikerūpa) như thế nào?

Đáp: Là sắc gần, chỉ về 3 sắc: khứu giác quan; vị giác quan; xúc giác quan. Cả 3 sắc này chỉ thọ được cảnh giới trong nơi gần, gọi là cận sắc.


Ghi chú:

  • 1
    Hao mòn tan nát.
  • 2
    Duyên cớ tiêu diệt.
  • 3
    Hai đầu trái đất.
  • 4
    Địa ngục lớn hằng có tội nhân chịu khổ luôn khôn dứt, không gián đoạn.
  • 5
    Nắng lâu không mưa.
  • 6
    Lẫn ở chỗ nầy chỗ khác, không nhứt định.
  • 7
    Sắc nương theo tứ đại sắc.
  • 8
    Cơ quan trong thân thể giúp cho mình hiểu biết được.
  • 9
    Khoảng không.
  • 10
    Dịch là nhơn gần hoặc mau chóng, nghĩa là thấy nghe, được mau lẹ.
  • 11
    Sắc ở trong khoảng có giới hạn.
  • 12
    Hình dáng bề ngoài của người nữ.
  • 13
    Phẩm cách con người.
  • 14
    Tóc, lông, móng, răng, da v, v…
  • 15
    Sắc dựa vào tứ đại sắc.