WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Nhóm bốn Nghiệp cho quả theo lãnh vực

HẬU SỚ GIẢI THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN TÓM TẮT
PARAMATTHAJOTIKA MAHĀ ABHIDHAMMATTHASAṄGAHA ṬĪKĀ

CHƯƠNG 4
(quyển 2)

VITHĪMUTTASAṄGAHA

Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Thắng Pháp Tập Yếu Luận Pāli và lời dịch
(nhóm 4 nghiệp)
Kammacatukka

Nhóm 4 nghiệp cho quả theo lãnh vực (Pātthānacatukka)

Nghiệp nói theo lãnh vực cho quả có 4 loại:

1. Akusalakamma: Tư trong 12 tâm bất thiện.

2. Kāmāvacarakamma: Tư trong 8 tâm đại thiện.

3. Rūpāvacarakamma: Tư trong 5 tâm thiện sắc giới.

4. Arūpāvacarakamma: Tư trong 4 tâm thiện vô sắc giới.

Giải rộng theo Pāli điều thứ 4 rằng: “Tattha akusalam kāyakammaṃ”. Trong nhóm 4 nghiệp này thì có 3 nhóm 4 nghiệp:

– Nhóm 4 nghiệp làm phận sự (Kiccacatukka) như sanh nghiệp…

– Nhóm 4 nghiệp cho quả theo tuần tự (Pākadānacatukka) như trọng nghiệp.

– Nhóm 4 nghiệp cho quả theo thời gian (Pākakālacatukka) như hiện báo nghiệp.

Nhóm nghiệp này Ngài giáo thọ sư Anuruddha đã trình bày giải rộng mỗi loại trong Thắng Pháp Tập Yếu Luận bởi vì việc trình bày 3 nhóm 4 nghiệp như đã đề cập trên là trình bày theo lý Kinh Tạng.

Riêng đối với nhóm 4 nghiệp thứ 4. Tức nhóm 4 nghiệp nói theo lãnh vực cho quả (Pakaṭṭhānacatukka) như nghiệp bất thiện… là trình bày theo lý Thắng Pháp. Do đó, mới trình bày giải rộng kể từ:

Tattha akusalaṃ kāyakammaṃ“… cho đến sau cùng của nhóm 4 nghiệp là: “Itthaṃ mahaggataṃ puññam“…

Bất thiện nghiệp nói theo nghiệp môn, tức nhân làm cho thành tựu hành động có 3 loại:

1. Thân bất thiện nghiệp.

2. Ngữ bất thiện nghiệp.

3. Ý bất thiện nghiệp.

Từ: Nghiệp môn (Kammadvāra) nếu phân tích từ thì được 2 từ: Kamma + Dvāra, Kamma: hành động, Dvāra: nhân làm cho phát sanh lên. Gom 2 từ lại thành Kammadvāra là nhân phát sanh hành động.

Kammadvāra (nghiệp môn) có 3 loại:

1. Kāyadvāra (thân môn) = Thân làm nhân phát sanh hành động tức thân biểu tri (Kāyaviññattirūpa).

2. Vacīdvāra (ngữ môn) = Ngữ làm nhân phát sanh hành động tức ngữ biểu tri (Vāciviññattirūpa).

3. (ý môn) = Tâm làm nhân phát sanh hành động tức tất cả tâm.

Như Ngài A xà lê sớ giải trình bày trong sớ giải Aṭṭhasālinī rằng: “Sabbopi manodvāraṃ” “Ngay cả tất cả tâm cũng là ý môn” nhưng ý môn liên quan đến bất thiện nghiệp tức 10 tâm bất thiện (trừ tâm si căn).

Bất thiện nghiệp sanh lên bằng đường thân gọi là thân nghiệp như trình bày định nghĩa như sau:”Kāyadvāre pavattaṃ kammaṃ = Kāyakammaṃ“. Hành động bất thiện sanh lên bằng đường thân gọi là thân nghiệp.

Bất thiện nghiệp sanh lên bằng đường ngữ gọi là ngữ nghiệp như trình bày định nghĩa như sau: “Vacīdvāre pavattaṃ kammaṃ = Vacīkammaṃ“. Hành động bất thiện sanh lên bằng đường ngữ gọi là ngữ nghiệp.

Bất thiện nghiệp sanh lên bằng đường tâm gọi là ý nghiệp như trình bày định nghĩa như sau: “Manodvāre pavattaṃ kammaṃ = Manokammaṃ“. Hành động bất thiện sanh lên bằng đường tâm gọi là ý nghiệp.

*

Trình bày sự khác biệt giữa tư và nghiệp

Đức Thế Tôn Ngài thuyết trong Tăng Chi Bộ Kinh pháp 6 chi rằng: “Cetanāhaṃ bhikkave kammaṃ vadāmi cetayitva kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā“.

“Này các tỳ kheo! sự cố ý làm duyên thúc đẩy cho hành động được thành tựu bằng thân, bằng ngữ, bằng ý cũng có. Do nhân này, Như Lai phán dạy rằng: “Sở hữu Tư chính là nghiệp”.

Thích giải: “Tư chính là nghiệp thường cho quả tốt (Iṭṭhaphala) và quả xấu (Aniṭṭhaphala) sanh lên. Như Ngài A xà lê hậu sớ giải đã trình bày trong Abhidhammāvatāraṭīka rằng: “Karoti abhinibbattati iṭṭhāniṭṭhaphalāni etenāti = Kammaṃ”.

“Người tạo tác gặt được quả tốt, quả xấu sanh lên bằng tư nào, tư đó gọi là nghiệp”.

Thông thường tất cả mọi người khi hành động một điều nào phải có sự chủ tâm sanh lên trước như: “Ta làm việc này, việc kia rồi mới hành động” hoặc “Ta sẽ nói việc này, việc kia rồi mới nói” hay “Ta sẽ suy nghĩ việc này, việc kia rồi mới suy nghĩ”. Khi hình thành như vậy thì việc hành động sai biệt của tất cả mọi người đều có sự chủ tâm do tư là pháp dắt dẫn. Bởi nhân này, Đức Thế Tôn mới phán dạy “Sở hữu Tư chính là nghiệp”. Nhưng tư với nghiệp cả hai có sự khác biệt nhau. Tức tư là pháp phát sanh lên trước nghiệp (Pubbabhāgadhamma), nghiệp là pháp phát sanh ra sau tư (Pacchabhāgadhamma). Đây là trình bày theo cách không phân loại (Abhedakanaya). Vì vậy, Ngài A xà lê Mahābuddhaghosa mới trình bày trong kinh Upàlì của sớ giải Majjhimapaṇṇāsaka rằng: “Kasmā cetanā kammanti vuttā ? Cetanā mùlakattà kamassa”. Do đó, Đức Thế Tôn mới phán thuyết rằng: “Tư được gọi là nghiệp bởi vì hành động được thành tựu do có Tư làm gốc”.

*

Trình bày 276 loại tư cho quả trong kiếp thứ hai…

12 tư bất thiện, 8 tư đại thiện. Gom 20 tư này lại sanh lên do nương vào đường thân có 80:

Sayaṃkatamūlikacetana: Tư sanh lên do hành động của chính mình, có 20.

Āṇattikamūlikacetanā: Tư sanh lên do sự sai biểu người khác làm, có 20.

Sampajānamūlikacetanā: Tư sanh lên từ việc nhận thức được phước và tội của hành động, có 20.

Asampajānamūlikacetanā: Tư sanh lên từ việc không nhận thức được phước và tội của hành động, có 20.

Gom lại:

Tư bất thiện và tư thiện sanh lên bằng đường thân có 80.

Tư bất thiện và tư thiện sanh lên bằng đường ngữ có 80.

Tư bất thiện và tư thiện sanh lên bằng đường tâm có 116. (12 tư bất thiện + 8 tư đại thiện + 9 tư thiện đáo đại = 29)

29 thuộc Sayaṃkatamūlikacetanā.

29 thuộc Āṇattikamūlikacetanā.

29 thuộc Sampajānamūlikacetanā.

29 thuộc Asampajānamūlikacetanā.

29 x 4 = 116

– Tư bất thiện và thiện sanh lên bằng đường thân có 80.

– Tư bất thiện và thiện sanh lên bằng đường ngữ có 80.

– Tư bất thiện và thiện sanh lên bằng đường tâm có 116.

Tổng cộng là 276 loại tư như Ngài A xà lê trình bày trong sớ giải Tăng Chi Bộ Kinh rằng: “Iti sabbāpi tīsu dvāresu dvesatāni chasattati ca cetana “Tư cho quả trong kiếp thứ hai trong cả 3 môn có số lượng 276 loại”.

Thích giải rộng điều Pāli thứ 6 – 7 – 8 trình bày đến thập bất thiện nghiệp Đạo như sát sanh… Đã trình bày giải thích bất thiện nghiệp theo cả 3 môn như có bất thiện loại nào và có số lượng bao nhiêu. Vì vậy, Ngài giáo thọ sư Anuruddha đã trình bày tiếp theo rằng: “Katham? Pānātipato,.. như đã đề cập tiếp theo đây. Phần nhiều hành động bất thiện sanh lên bằng đường thân gọi là thân nghiệp, Kāya = Kāyakamma = Việc hành động bất thiện thân nghiệp có 3 loại:

– Sát sanh.

– Trộm cắp.

– Tà dâm.

Hầu hết hành động bất thiện sanh lên bằng đường ngữ gọi là ngữ nghiệp, Vacī = Vācākamma = Việc hành động bất thiện ngữ nghiệp có 4 loại:

–  Nói dối.

–  Nói đâm thọc.

– Nói thô tục.

– Nói lời vô ích.

Hầu hết hành động bất thiện sanh lên bằng đường tâm gọi là ý nghiệp, Mano = citta kamma = Việc hành động bất thiện ý nghiệp có 3 loại:

–  Tham ác.

–  Sân ác.

–  Tà kiến ác.

Bất thiện nghiệp như đã đề cập trên đây gọi là thập ác hạnh.