Hôm nay chúng ta sẽ học nhóm đầu tiên, các loại tâm (Cittas) bất thiện. Có bao nhiêu loại tâm bất thiện? Có tất cả 12 tâm (Cittas) bất thiện. Tại sao gọi chúng là bất thiện? Đôi khi chúng được gọi là không đúng đắn (immoral) hay không thiện xảo (unskillful). Nhưng tôi thích sử dụng từ bất thiện hơn. Những tâm mà đi kèm với tham (Lobha), sân (Dosa), và si (Moha) thì được gọi là bất thiện. Có những tâm đi kèm với vô tham, vô sân, vô si được gọi là các tâm thiện. Chúng cũng được gọi là những tâm tịnh hảo. Còn những tâm đi kèm với tham (Lobha), sân (Dosa), và si (Moha) thì được gọi là tâm bất thiện.
Tham (Lobha), sân (Dosa), và si (Moha) là ba nhân bất thiện, tội lỗi. Tâm tham (Lobha) lúc nào cũng được đề cập trước, sau đó đến sân (Dosa), và si (Moha). Lúc nào ta cũng có trật tự này tham (Lobha), sân (Dosa), si (Moha). Theo Chú Giải của quyển yếu luận này, tâm đi kèm với tham (Lobha) được đề cập trước tiên bởi vì trong một kiếp sống tâm đổng lực (Javana) đầu tiên khởi sanh lên đi kèm với tham (Lobha). Trong bất kỳ kiếp sống nào mà chúng ta sanh ra thì trước hết đều có sự dính mắc vào sự hiện hữu, dính mắc vào kiếp sống đó. Sự dính mắc đó rất mạnh khiến chúng ta luôn dính mắc vào đời sống của mình. Đó là lý do tại sao tâm đi kèm tham (Lobha) được đề cập trước. Tâm mà đi kèm với ác ý, sân hận, sự giận dữ hay cái gì đó tương tự vậy thì được đề cập tiếp theo. Hai loại tâm cuối cùng đi kèm với si mê (Moha).
Moha hay si mê thì có trong tất cả 12 tâm bất thiện (Akusala). Mặc dù nhân si mê có mặt trong tất cả các tâm bất thiện, nhưng 8 tâm bất thiện đầu tiên không được gọi là tâm có nhân tham-sân (Lobha–Moha) — mà chỉ có tham (Lobha) được đề cập đến, nên được gọi là tâm có nhân tham. Khi chúng ta nói tâm tham, nghĩa là cũng có si mê ở trong đó. Điều này cũng đúng với tâm sân (Dosa).
Tâm (Citta) đầu tiên — tiếng Pāḷi là Lobhamūla Citta (xem CMA, I, §4, trang 32 ) — ‘Mūla‘ nghĩa là gốc rễ hay nhân. Do đó từ này có nghĩa là có gốc hay nhân tham (Lobha), tâm (Citta) mà có nhân tham, tâm (Citta) mà được đi kèm với tham (Lobha). ‘Lobha‘ nghĩa là dính mắc, tham lam, thèm muốn. Tất cả những từ này đều là Lobha.
Tâm (Citta) đầu tiên là Somanassa-sahagata Diṭṭhigata-sampayutta Asaṅkhārika — tâm tham thọ hỷ hợp tà vô trợ. ‘Somanassa‘ nghĩa là thọ hỷ. Somanassa được cấu tạo bởi từ ‘Su’ và ‘Mana’. ‘Su’ nghĩa là tốt đẹp và ‘Mana’ nghĩa là tâm. ‘Somanassa‘ nghĩa là trạng thái tâm tốt đẹp, hài lòng. Khi bạn vui, tâm bạn ở trạng thái tốt đẹp, ‘Somanassa‘ có nghĩa là dễ chịu và do đó nó là cảm giác dễ chịu. Sahagata — ‘Saha‘ nghĩa là với nhau và ‘Gata‘ nghĩa là sanh khởi. Do đó Sahagata nghĩa là sanh khởi với nhau hay nói cách khác là sanh khởi cùng với Somanassa. Có nghĩa là sanh khởi cùng lúc với thọ hỷ (cảm giác dễ chịu). Sự hoà huyện của chúng hoàn hảo tới mức thật khó phân biệt đâu là tâm đâu là thọ hỷ. Giống như nước từ hai dòng sông hoà vào nhau vậy. Bạn không thể nói nước nào từ dòng sông nào. Chúng hoà huyện với nhau giống như vậy.
Diṭṭhigata-sampayutta — ‘Diṭṭhi‘ nghĩa là sự hiểu biết hay quan điểm. Khi ‘Diṭṭhi‘ được sử dụng mà không có tính từ đứng trước nó, thì nó thường có nghĩa là tà kiến. Khi chúng ta muốn nói tới chánh kiến, chúng ta dùng từ ‘Sammā-diṭṭhi‘. Chánh kiến (Sammā-diṭṭhi) là một trong tám chi phần của Bát Chánh Đạo. ‘Gata‘ không có nghĩa gì đặc biệt ở đây. Nhưng ‘Diṭṭhigata‘ nghĩa là tà kiến (sự hiểu biết sai lầm). ‘Sampayutta‘ nghĩa là được phối hợp, ở đây nghĩa là được phối hợp với tà kiến.
Từ ‘Asaṅkhārika‘ nghĩa là vô trợ. Tôi đã từng nói với bạn từ ‘Saṅkhāra‘ có rất nhiều nghĩa. Do đó việc hiểu chính xác nghĩa của nó theo từng ngữ cảnh cụ thể là điều rất quan trọng. Khi bạn nói ‘Saṅkhārakkhandha‘, nghĩa là hành uẩn, thì bạn đang nói tới 50 tâm sở (Cetasikas). Bạn sẽ học các tâm sở này sau này. Khi chúng ta nói các hành (Saṅkhāras) là vô thường, có nghĩa là chúng ta đang nói tới tất cả những pháp bị điều kiện hoá (hay pháp hữu vi), luôn cả danh pháp và sắc pháp — chứ không phải chỉ có 50 tâm sở (Cetasikas). Tuỳ thuộc vào vô minh mà hành (Saṅkhāra) sanh khởi. Từ hành (Saṅkhāra) ở đây có nghĩa là sự tạo tác nghiệp. Do đó hành (Saṅkhāra) có nghĩa là 50 tâm sở hay ngũ uẩn hay chỉ là tâm sở tư (một trong các tâm sở Cetasikas). Nhưng từ hành (Saṅkhāra) trong trường hợp này nghĩa là sự nỗ lực hay sự xúi giục hay sự thúc đẩy hay sự khuyến khích do chính bản thân mình hay bởi người khác. ‘A’ có nghĩa là không. Do đó ‘Asaṅkhārika‘ nghĩa là không có Saṅkhāra, không có sự thúc đẩy, mà có nghĩa là mang tính tự phát (vô trợ).
Liên quan tới vô trợ (Asaṅkhārika) và hữu trợ (Sasaṅkhārika) thì có đoạn trích sau:
“Từ Saṅkhāra mang nhiều nghĩa được sử dụng ở đây là theo nghĩa đặc biệt trong Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) để chỉ cho sự thúc đẩy, sự xúi giục, sự xui khiến (payoga), hay sử dụng một phương thức nào đó (upāya). Sự thúc đẩy có thể do người khác tác động vào … ” (CMA, I, Guide to §4, trang 36).
Đôi khi tâm sanh lên là do bởi người khác khuyến khích hay xúi giục bạn.
“… hay nó có thể xuất phát từ chính bản thân bạn; …” (CMA, I, Guide to §4, trang 36).
Đôi khi bạn lười làm việc nào đó nhưng sau đó bạn tự khích lệ bản thân.
“… phương tiện được sử dụng có thể là thân, khẩu, hay ý.” (CMA, I, Guide to §4, trang 36).
Chẳng hạn khi bạn thấy một người đang làm điều gì đó và bạn cũng muốn làm điều đó. Đôi khi người ta có thể khơi gợi cho bạn bằng ví dụ. Đôi khi họ có thể sử dụng ngôn từ để xúi giục bạn. Đôi khi chính tâm trí bạn thôi thúc bạn.
“Tâm nào phát sanh một cách tự phát, không do bất kỳ phương tiện nào thúc đẩy hay xúi giục, được gọi là tâm vô trợ (Asaṅkhārika). Tâm nào phát sanh do những phương tiện thúc đẩy hay xúi giục, được gọi là tâm hữu trợ (Sasaṅkhārika). (CMA, I, Guide to §4, trang 36). Thật ra từ này mang nghĩa là có sự hỗ trợ hay sự thúc đẩy.
Như vậy loại tâm thứ nhất này được đi kèm với thọ hỷ, phối hợp với tà kiến, và vô trợ. Tà kiến ở đây nghĩa là không có đức tin vào nghiệp và quả của nghiệp, không có đức tin vào luật nghiệp báo, không có đức tin vào kiếp sống này và kiếp khác — đại khái vậy. Đó được gọi là tà kiến.
Thọ hỷ, tà kiến, và yếu thố thúc đẩy — ba yếu tố này làm thức trở thành tám loại tâm. Chúng ta sẽ có một loại cảm thọ khác, đó là thọ xả (Upekkhā), khi chúng ta học tới loại tâm thứ năm. Tâm đầu tiên được đi kèm với thọ hỷ, phối hợp với tà kiến và vô trợ. Nói một cách vắn tắt là “với thọ hỷ, hợp tà” để tránh sử dụng nhiều từ diễn tả. Tâm thứ nhất là tâm đi với thọ hỷ, hợp tà, và vô trợ. Loại tâm này sanh lên khi nào? Bạn có thể tham khảo trang 39 của quyển CMA.
“Với sự thích thú (thọ hỷ) và nghĩ rằng không có tội lỗi khi ăn cắp (tà kiến), cậu bé tự ý ăn cắp trái táo từ gian hàng bán trái cây.” (CMA, I, Guide to §7, trang 39).
Loại tâm thứ hai đi kèm với thọ hỷ và hợp tà, nhưng có yếu tố thúc đẩy. Tâm này là tâm hữu trợ. Ta hãy xem thử ví dụ sau:
“Với sự thích thú (thọ hỷ) và nghĩ rằng không có tội lỗi khi ăn cắp (tà kiến), cậu bé ăn cắp trái táo theo sự xúi giục của người bạn.” (CMA, I, Guide to §7, trang 39).
Bạn cậu bé xúi cậu ăn cắp trái táo, hay đôi khi chính cậu tự xúi mình “Mình sẽ lấy trái táo này và sẽ ăn nó. Tại sao lại không lấy?” Có thể cậu tự nói như vậy để thúc giục bản thân mình ăn cắp trái táo. Trong trường hợp này tâm của cậu bé đi kèm với thọ hỷ, hợp tà và hữu trợ.
Loại tâm thứ ba sanh lên cùng thọ hỷ, nhưng không phối hợp với tà kiến, và không có sự thúc đẩy. Chẳng hạn như cậu bé ăn cắp trái táo với sự hân hoan thích thú nhưng không có tà kiến và không có yếu tố xúi giục hay thúc đẩy. Cậu ta hiểu rõ ăn cắp là điều sái quấy nhưng vẫn ăn cắp. Khi cậu ta hiểu rõ làm điều đó là sai trái nhưng cậu vẫn làm, thì tâm của cậu là tâm ly tà.
Loại tâm thứ tư cũng tương tự như tâm thứ ba chỉ khác ở yếu tố hữu trợ (cần có sự thúc đẩy) — tức là tâm đi kèm với thọ hỷ, ly tà, và hữu trợ.
Chúng ta có bốn loại tâm:
Tâm đi kèm với thọ hỷ, hợp tà, vô trợ;
Tâm đi kèm với thọ hỷ, hợp tà, hữu trợ;
Tâm đi kèm với thọ hỷ, ly tà, vô trợ;
Tâm đi kèm với thọ hỷ, ly tà, hữu trợ.
Nếu bạn hiểu bốn tâm này thì bạn cũng sẽ hiểu bốn tâm còn lại. Chỉ cần thay thọ hỷ bằng thọ xả bạn sẽ có bốn tâm còn lại. Đôi khi cậu bé không có sự hoan hỷ khi ăn cắp. Cậu chỉ đơn thuần là ăn cắp trái táo thôi. Trường hợp được mô tả như thế nào?
“Bốn loại tâm này tương đương với bốn loại tâm trên nhưng chỉ khác nhau ở chỗ hành động ăn cắp đi kèm với thọ xả. (CMA, I, Guide to §7, trang 39).
Trong trường hợp này cậu bé không hoan hỉ, cũng không buồn. Cậu chỉ đơn thuần ăn cắp (cảm thọ ở đây là trung tính). Ở dây, một trong bốn loại tâm này sanh khởi trong tâm cậu. Như vậy có tất cả tám loại tâm đi kèm với tham hay sự dính mắc (Lobha). Tất cả tám loại tâm này được phân loại dựa trên cảm thọ, sự hiểu biết (hợp tà hay ly tà), sự thúc đẩy hay không có sự thúc đẩy (hữu trợ hay vô trợ).
Bốn tâm đi kèm với thọ hỷ (Somanassa). Bốn tâm đi kèm với thọ xả (Upekkhā) hay thọ trung tính.
Từ Upekkhā được dịch là sự bình thản hay sự lãnh đạm. Tôi nghĩ sự bình thản thì không diễn tả chính xác từ Upekkhā trong trường hợp này. Tôi thích dùng từ thọ lãnh đạm hay thọ trung tính hơn. Khi nào bạn thấy từ Upekkhā, bạn phải hiểu nghĩa của nó. Thuật ngữ Upekkhā này được sử dụng cho cả cảm thọ trung tính hay trạng thái xả cao thượng. Ở đây nó chỉ có nghĩa là cảm thọ trung tính. Đó là loại cảm thọ không thích thú cũng không khó chịu, chỉ là cảm thọ trung tính. Khi tâm bạn tiếp nhận đối tượng hay cảnh, bạn không vui cũng không buồn; tâm bạn chỉ đơn thuần là bắt lấy đối tượng. Đó chính là tâm xả (Upekkhā).