Hãy cố gắng ghi nhớ 12 loại tâm bất thiện này bằng tiếng mẹ đẻ của mình trước thay vì bằng tiếng Pāḷi, có thể bạn cảm thấy khó khi phải ghi nhớ bằng tiếng Pāḷi tại thời điểm này. Nhưng cũng đừng bỏ qua toàn bộ tiếng Pāḷi vì chúng ta sẽ sử dụng các thuật ngữ Pāḷi nhiều lần. Một khi bạn đã quen thuộc với tiếng Pāḷi, bạn sẽ thích sử dụng chúng. Dần dần sau này bạn chỉ muốn sử dụng các từ Pāḷi thôi vì khi sử dụng ngôn ngữ này sẽ không tạo ra sự hiểu lầm hay diễn đạt sai lầm điều gì đó. Khi chúng ta dịch sang ngôn ngữ khác, đôi lúc các bản dịch sẽ không được chính xác và có khi dẫn tới hiểu lầm. Ngay khi tôi sử dụng các thuật ngữ bằng tiếng mẹ đẻ, tôi cũng sẽ đối chiếu lại với Pāḷi. Trước hết các thuật ngữ bằng tiếng Pāḷi sẽ được định nghĩa và sau đó chúng ta có thể luôn dùng chúng sau này.
Tám tâm (Cittas) đầu tiên này đi kèm với nhân gì? Chúng đi kèm với tham (Lobha).
Hai tâm thứ 9 và 10 đi kèm với nhân gì? Chúng đi đi kèm với sân (Dosa).
Hai thâm thứ 11 và 12 đi kèm với nhân gì? Chúng đi kèm với si (Moha).
Trong số 8 tâm tham (Lobhamūla Cittas) thì 4 loại tâm đầu (từ thứ 1 đến thứ 4) đi kèm với thọ hỷ. Còn 4 loại tâm sau (từ thứ 5 tới thứ 8) đi kèm với thọ xả. Trong 4 tâm đầu tiên, thì tâm thứ 1 và thứ 2 hợp với tà kiến nhưng tâm thứ 3 và thứ 4 thì không hợp với tà kiến. Trong 4 tâm còn lại, thì tâm thứ 5 và thứ 6 hợp với tà kiến nhưng tâm thứ 7 và thứ 8 không hợp với tà kiến.
Trong quyển CMA có dùng từ “tách rời” (disassociated) (xem CMA, I, Guide to §4, trang 34). Tôi không rõ về nghĩa của từ đó. Từ “tách rời” (disassociated) có nghĩa là gì? Có sự khác biệt nào giữa hai từ “tách rời” (disassociated) và “không kết hợp” (unassociated) không? Chẳng hạn như khi có 2 thứ ở cùng với nhau, sau đó bạn lấy 1 cái đi. Đó là nghĩa của từ “tách rời” (disassociated). Nghĩa này lại không phù hợp với ngữ cảnh này. Ở đây tôi thích dùng từ “không kết hợp” (unassociated hay non-associated) hơn. Tức là hai loại tâm này không kết hợp với tà kiến (Diṭṭhi).
Hai tâm tiếp theo (tâm thứ 9 và thứ 10) đi kèm với thọ gì? Chúng đi kèm với thọ ưu. Và hai tâm cuối (thứ 11 và 12) đi kèm với thọ xả.
– Tâm (Citta) đầu tiên đi kèm với thọ hỷ, hợp tà, và vô trợ.
– Tâm thứ hai đi kèm với thọ hỷ, hợp tà, và hữu trợ.
– Tâm thứ ba đi kèm với thọ hỷ, ly tà, và vô trợ.
– Tâm thứ tư đi kèm với thọ hỷ, ly tà, và hữu trợ.
– Tâm thứ năm đi kèm với thọ xả, hợp tà, và vô trợ.
– Tâm thứ sáu đi kèm với thọ xả, hợp tà, và hữu trợ.
– Tâm thứ bảy đi kèm với thọ xả, ly tà, và vô trợ.
– Tâm thứ tám đi kèm với thọ xả, ly tà, và hữu trợ.
– Tâm thứ chín là tâm sân đi kèm với thọ ưu và vô trợ.
– Tâm thứ 10 là tâm sân đi kèm với thọ ưu và hữu trợ.
– Hai tâm cuối cùng (tâm thứ 11 và thứ 12) là hai tâm si – tâm si thứ nhất đi kèm với thọ xả và hoài nghi. Ở đây không có sự khác nhau về hữu trợ và vô trợ, tức là không có sự phân biệt giữa hữu trợ và vô trợ. Tâm si thứ hai đi kèm với thọ xả và phóng dật.
Khi về nhà bạn hãy luyện tập ghi nhớ theo cách này. Bạn hãy che sách lại và cố gắng mô tả từng loại tâm một. Chẳng hạn như tâm thứ nhất là tâm tham đi kèm với thọ hỷ, hợp tà, và hữu trợ. Nếu bạn không thể nhớ, bạn hãy dở sách ra và xem đáp án. Theo cách này bạn có thể ghi nhớ 12 loại tâm bất thiện này trước khi qua tuần sau.
Sādhu! Sādhu! Sādhu!