Bài Kinh Số 3.26
Aṅguttara Nikāya 3.26
3. Phẩm Người
3. Puggalavagga
Thân Cận
Sevitabbasutta
“Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?
“Tayome, bhikkhave, puggalā santo saṁvijjamānā lokasmiṁ. Katame tayo?
Có hạng người này, này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường.
Atthi, bhikkhave, puggalo na sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo.
Có hạng người, này các Tỷ-kheo, nên thân cận gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Atthi, bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Có hạng người, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Atthi, bhikkhave, puggalo sakkatvā garuṁ katvā sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường?
Katamo ca, bhikkhave, puggalo na sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thấp kém về giới, định, tuệ.
Idha, bhikkhave, ekacco puggalo hīno hoti sīlena samādhinā paññāya.
Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường, trừ khi vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn.
Evarūpo, bhikkhave, puggalo na sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo aññatra anuddayā aññatra anukampā.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường?
Katamo ca, bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đồng đẳng với mình về giới, định, tuệ.
Idha, bhikkhave, ekacco puggalo sadiso hoti sīlena samādhinā paññāya.
Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Evarūpo, bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Vì cớ sao?
Taṁ kissa hetu?
Với ý nghĩ: “(Cả hai) thiện xảo về giới, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về giới, được diễn tiến (lợi ích) cho cả hai chúng ta, và sẽ làm cho hai chúng ta được an lạc.
Sīlasāmaññagatānaṁ sataṁ sīlakathā ca no bhavissati, sā ca no pavattinī bhavissati, sā ca no phāsu bhavissati.
(Cả hai) là thiện xảo về định, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về định, được diễn tiến (lợi ích) cho cả hai chúng ta, và sẽ làm cho hai chúng ta được an lạc.
Samādhisāmaññagatānaṁ sataṁ samādhikathā ca no bhavissati, sā ca no pavattinī bhavissati, sā ca no phāsu bhavissati.
(Cả hai) là thiện xảo về tuệ, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về tuệ, được diễn tiến (lợi ích) cho cả hai, và chúng sẽ làm cho hai chúng ta an lạc.
Paññāsāmaññagatānaṁ sataṁ paññākathā ca no bhavissati, sā ca no pavattinī bhavissati, sā ca no phāsu bhavissatīti.
Cho nên, người như vậy nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Tasmā evarūpo puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Thế nào là hạng người, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường?
Katamo ca, bhikkhave, puggalo sakkatvā garuṁ katvā sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thù thắng về giới, định và tuệ.
Idha, bhikkhave, ekacco puggalo adhiko hoti sīlena samādhinā paññāya.
Hạng người ấy, này các Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường.
Evarūpo, bhikkhave, puggalo sakkatvā garuṁ katvā sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Vì cớ sao?
Taṁ kissa hetu?
Với ý nghĩ: “Như vậy, nếu giới chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu giới được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ.
Iti aparipūraṁ vā sīlakkhandhaṁ paripūressāmi, paripūraṁ vā sīlakkhandhaṁ tattha tattha paññāya anuggahessāmi;
Hay nếu định chưa đầy đủ, ta sẽ làm cho đầy đủ, hay nếu định được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ.
aparipūraṁ vā samādhikkhandhaṁ paripūressāmi, paripūraṁ vā samādhikkhandhaṁ tattha tattha paññāya anuggahessāmi;
Hay nếu tuệ chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu tuệ được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ”.
aparipūraṁ vā paññākkhandhaṁ paripūressāmi, paripūraṁ vā paññākkhandhaṁ tattha tattha paññāya anuggahessāmīti.
Cho nên, với hạng người này, sau khi cung kính tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường.
Tasmā evarūpo puggalo sakkatvā garuṁ katvā sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā santo saṁvijjamānā lokasminti.
Người gần kẻ hạ liệt,
Rồi cũng bị hạ liệt;
Nihīyati puriso nihīnasevī,
Thân cận người đồng đẳng,
Ðược khỏi bị thối đọa;
Na ca hāyetha kadāci tulyasevī;
Ai gần bậc thù thắng,
Mau chóng được thăng tiến;
Seṭṭhamupanamaṁ udeti khippaṁ,
Do vậy hãy sống chung,
Bậc ưu thắng hơn mình.”
Tasmā attano uttariṁ bhajethā”ti.
Chaṭṭhaṁ.