WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 3.37 Bốn Bậc Đại Vương (1)

Bài Kinh Số 3.37
Aṅguttara Nikāya 3.37

4. Phẩm Sứ Giả Của Trời
4. Devadūtavagga

Bốn Bậc Đại Vương (1)
Catumahārājasutta (1)

“Này các Tỷ-kheo, trong ngày thứ tám của nửa tháng, các vị Ðại thần cố vấn cho bốn Ðại vương, đi du hành trong thế giới này để xem:
“Aṭṭhamiyaṁ, bhikkhave, pakkhassa catunnaṁ mahārājānaṁ amaccā pārisajjā imaṁ lokaṁ anuvicaranti:

‘Trong loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha (Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.’
‘kacci bahū manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṁ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.

Này các Tỷ-kheo, trong ngày 14 của nửa tháng, các Hoàng tử của bốn Thiên vương, đi du hành trong thế giới này để xem:
Cātuddasiṁ, bhikkhave, pakkhassa catunnaṁ mahārājānaṁ puttā imaṁ lokaṁ anuvicaranti:

‘Trong loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha (Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.’
‘kacci bahū manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṁ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.

Này các Tỷ-kheo, trong ngày rằm lễ Uposatha, bốn vị Thiên vương tự mình đi du hành trong thế giới này để xem:
Tadahu, bhikkhave, uposathe pannarase cattāro mahārājāno sāmaññeva imaṁ lokaṁ anuvicaranti:

‘Trong loài người, có nhiều người có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha (Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.’
‘kacci bahū manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṁ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.

Nếu chỉ có ít người giữa loài người, này các Tỷ-kheo, có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha (Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.
Sace, bhikkhave, appakā honti manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṁ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karonti.

Thời này các Tỷ-kheo, bốn vị Ðại vương liền báo với chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại hội trường Sudhammā:
Tamenaṁ, bhikkhave, cattāro mahārājāno devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sudhammāya sabhāya sannisinnānaṁ sannipatitānaṁ ārocenti:

‘Thưa chư vị, có ít người giữa loài người có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha (Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.’
‘appakā kho, mārisā, manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṁ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.

Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba không hoan hỉ nói:
Tena kho, bhikkhave, devā tāvatiṁsā anattamanā honti:

‘Thật vậy, Thiên chúng sẽ bị tổn giảm và Asura chúng (A-tu-la) sẽ được sung mãn!’
‘dibbā vata, bho, kāyā parihāyissanti, paripūrissanti asurakāyā’ti.

Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu có nhiều người giữa loài người, có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha (Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.
Sace pana, bhikkhave, bahū honti manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṁ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karonti.

Thời này các Tỷ-kheo, bốn vị Ðại vương liền báo với chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba, đang ngồi tụ họp tại hội trường Sudhammā:
Tamenaṁ, bhikkhave, cattāro mahārājāno devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sudhammāya sabhāya sannisinnānaṁ sannipatitānaṁ ārocenti:

‘Thưa chư vị, có nhiều người giữa loài người có hiếu với mẹ, có hiếu với cha, có kính Sa-môn, Bà-là-môn, có tôn trọng các vị gia trưởng, có làm lễ Uposatha (Bố-tát), có đề cao cảnh giác, có làm các công đức.’’
‘bahū kho, mārisā, manussā manussesu matteyyā petteyyā sāmaññā brahmaññā kule jeṭṭhāpacāyino uposathaṁ upavasanti paṭijāgaronti puññāni karontī’ti.

Rồi này các Tỷ-kheo, chư Thiên ở cõi trời thứ ba mươi ba hoan hỷ nói:
Tena, bhikkhave, devā tāvatiṁsā attamanā honti:

‘Thật vậy, Thiên chúng sẽ được sung mãn, còn các Asura chúng sẽ bị tổn giảm!’
‘dibbā vata bho kāyā paripūrissanti, parihāyissanti asurakāyā’ti.

Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, Thiên chủ Sakka đang thuyết giảng cho chư Thiên ở cõi Trời thứ Ba mươi ba, trong khi ấy, nói lên bài kệ như sau:
Bhūtapubbaṁ, bhikkhave, sakko devānamindo deve tāvatiṁse anunayamāno tāyaṁ velāyaṁ imaṁ gāthaṁ abhāsi:

‘Ngày mười bốn, mười lăm,
Ngày tám trong nửa tháng;
Kể cả phần đặc biệt,
Trọn vẹn cả tám phần,
Theo làm lễ Bố-tát,
Vị ấy giống như ta.’

‘Cātuddasiṁ pañcadasiṁ,
yā ca pakkhassa aṭṭhamī,

Pāṭihāriyapakkhañca,
aṭṭhaṅgasusamāgataṁ;
Uposathaṁ upavaseyya,
yopissa mādiso naro’ti.

Bài kệ ấy, này các Tỷ-kheo, đã bị Thiên chủ Sakka hát sai, không hát đúng, nói sai, không nói đúng. Vì cớ sao?
Sā kho panesā, bhikkhave, sakkena devānamindena gāthā duggītā na sugītā dubbhāsitā na subhāsitā. Taṁ kissa hetu?

Thiên chủ Sakka, này các Tỷ-kheo, chưa ly tham, chưa ly sân, chưa ly si.
Sakko hi, bhikkhave, devānamindo avītarāgo avītadoso avītamoho.

Còn vị Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, là bậc A-la-hán, lậu hoặc đã đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, gánh nặng đã đặt xuống, mục đích đã thành đạt, hữu kiết sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Với vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, lời nói này mới là thích đáng:
Yo ca kho so, bhikkhave, bhikkhu arahaṁ khīṇāsavo vusitavā brahmacariyo katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho pari­k­khīṇa­bha­vasa­ṁ­yojano sammadaññāvimutto, tassa kho etaṁ, bhikkhave, bhikkhuno kallaṁ vacanāya:

‘Ngày mười bốn, ngày rằm,
Ngày tám trong nửa tháng,
Kể cả phần đặc biệt,
Trọn vẹn cả tám phần,
Theo làm lễ Bố-tát,
Vị ấy giống như ta.’

‘Cātuddasiṁ pañcadasiṁ,
yā ca pakkhassa aṭṭhamī;
Pāṭihāriyapakkhañca,
aṭṭhaṅgasusamāgataṁ;
Uposathaṁ upavaseyya,
yopissa mādiso naro’ti.

Vì cớ sao? Vị Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, đã ly tham, đã ly sân, đã ly si.
Taṁ kissa hetu? So hi, bhikkhave, bhikkhu vītarāgo vītadoso vītamoho”ti.

Sattamaṁ.