WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 3.39 Nuôi Dưỡng Tế Nhị

Bài Kinh Số 3.39
Aṅguttara Nikāya 3.39

4. Phẩm Sứ Giả Của Trời
4. Devadūtavagga

Nuôi Dưỡng Tế Nhị
Sukhumālasutta

“Này các Tỷ-kheo, Ta được nuôi dưỡng tế nhị, tối thắng nuôi dưỡng tế nhị, cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị.
“Sukhumālo ahaṁ, bhikkhave, paramasukhumālo accantasukhumālo.

Này các Tỷ-kheo, trong nhà Phụ vương ta, các hồ nước được xây lên.
Mama sudaṁ, bhikkhave, pitu nivesane pokkharaṇiyo kāritā honti.

Trong một hồ có hoa sen xanh, trong một hồ có hoa sen đỏ, trong một hồ có hoa sen trắng, tất cả phục vụ cho ta.
Ekattha sudaṁ, bhikkhave, uppalaṁ vappati, ekattha padumaṁ, ekattha puṇḍarīkaṁ, yāvadeva mamatthāya.

Không một hương chiên đàn nào ta dùng, này các Tỷ-kheo, là không từ Kāsi đến. Bằng vải Kāsi là khăn của ta, này các Tỷ-kheo. Bằng vải kāsi là áo cánh, bằng vải kāsi là nội y, bằng vải kāsi là thượng y.
Na kho panassāhaṁ, bhikkhave, akāsikaṁ candanaṁ dhāremi. Kāsikaṁ, bhikkhave, su me taṁ veṭhanaṁ hoti, kāsikā kañcukā, kāsikaṁ nivāsanaṁ, kāsiko uttarāsaṅgo.

Ðêm và ngày, một lọng trắng được che cho ta để:
Rattindivaṁ kho pana me su taṁ, bhikkhave, setacchattaṁ dhārīyati:

‘Tránh xúc chạm lạnh, nóng, bụi, cỏ hay xương.’
‘mā naṁ phusi sītaṁ vā uṇhaṁ vā tiṇaṁ vā rajo vā ussāvo vā’ti.

Này các Tỷ-kheo, ba lâu đài được xây dựng cho Ta: một cái cho mùa đông, một cái cho mùa hạ, một cái cho mùa mưa.
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, tayo pāsādā ahesuṁ—eko hemantiko, eko gimhiko, eko vassiko.

Và Ta, này các Tỷ-kheo, tại lâu đài mùa mưa, trong bốn tháng mưa, được những nữ nhạc công đoanh vây, Ta không có xuống dưới lầu.
So kho ahaṁ, bhikkhave, vassike pāsāde vassike cattāro māse nippurisehi tūriyehi paricārayamāno na heṭṭhāpāsādaṁ orohāmi.

Trong các nhà của người khác, các người đầy tớ, làm công được cho ăn cơm tấm, cháo chua. Trong nhà phụ vương Ta, các người đầy tớ, làm công được cho ăn gạo, thịt gà và cơm nấu.
Yathā kho pana, bhikkhave, aññesaṁ nivesane dāsa­kammakara­pori­sassa kaṇājakaṁ bhojanaṁ dīyati bilaṅgadutiyaṁ, evamevassu me, bhikkhave, pitu nivesane dāsa­kammakara­pori­sassa sālimaṁsodano dīyati.

Với Ta, này các Tỷ-kheo, được đầy đủ với sự giàu sang như vậy, được cứu cánh nuôi dưỡng tế nhị như vậy, ta suy nghĩ rằng:
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, evarūpāya iddhiyā samannāgatassa evarūpena ca sukhumālena etadahosi:

Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị già, không vượt qua khỏi già, khi thấy người khác bị già, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy.
‘assutavā kho puthujjano attanā jarādhammo samāno jaraṁ anatīto paraṁ jiṇṇaṁ disvā aṭṭīyati harāyati jigucchati attānaṁyeva atisitvā, ahampi khomhi jarādhammo jaraṁ anatīto.

Ta cũng bị già, không vượt qua khỏi già, sau khi thấy người khác già, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta.’
Ahañceva kho pana jarādhammo samāno jaraṁ anatīto paraṁ jiṇṇaṁ disvā aṭṭīyeyyaṁ harāyeyyaṁ jiguccheyyaṁ na metaṁ assa patirūpan’ti.

Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của tuổi trẻ trong tuổi trẻ được đoạn trừ hoàn toàn.
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, iti paṭisañcikkhato yo yobbane yobbanamado so sabbaso pahīyi.

‘Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị bệnh, không vượt khỏi bệnh, thấy người khác bị bệnh, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy.
Assutavā kho puthujjano attanā byādhidhammo samāno byādhiṁ anatīto paraṁ byādhitaṁ disvā aṭṭīyati harāyati jigucchati attānaṁyeva atisitvā:

Ta cũng bị bệnh, không vượt qua khỏi bệnh, sau khi thấy người khác bị bệnh, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta.’
‘ahampi khomhi byādhidhammo byādhiṁ anatīto, ahañceva kho pana byādhidhammo samāno byādhiṁ anatīto paraṁ byādhikaṁ disvā aṭṭīyeyyaṁ harāyeyyaṁ jiguccheyyaṁ, na metaṁ assa patirūpan’ti.

Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của không bệnh trong không bệnh được đoạn trừ hoàn toàn.
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, iti paṭisañcikkhato yo ārogye ārogyamado so sabbaso pahīyi.

‘Kẻ vô văn phàm phu tự mình bị chết, không vượt khỏi chết, thấy người khác bị chết, lại bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm, quên rằng mình cũng như vậy.
Assutavā kho puthujjano attanā maraṇadhammo samāno maraṇaṁ anatīto paraṁ mataṁ disvā aṭṭīyati harāyati jigucchati attānaṁyeva atisitvā:

Ta cũng bị chết, không vượt qua khỏi chết, sau khi thấy người khác chết, ta có thể bực phiền, hổ thẹn, ghê tởm sao? Như vậy, thật không xứng đáng cho ta.’
‘ahampi khomhi maraṇadhammo, maraṇaṁ anatīto, ahaṁ ceva kho pana maraṇadhammo samāno maraṇaṁ anatīto paraṁ mataṁ disvā aṭṭīyeyyaṁ harāyeyyaṁ jiguccheyyaṁ, na metaṁ assa patirūpan’ti.

Sau khi quan sát về ta như vậy, này các Tỷ-kheo, sự kiêu mạn của sự sống trong sự sống được đoạn trừ hoàn toàn.
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, iti paṭisañcikkhato yo jīvite jīvitamado so sabbaso pahīyīti.

Có ba kiêu mạn này, này các Tỷ-kheo, Thế nào là ba?
Tayome, bhikkhave, madā. Katame tayo?

Kiêu mạn của tuổi trẻ, Kiêu mạn của không bệnh, Kiêu mạn của sự sống.
Yobbanamado, ārogyamado, jīvitamado.

Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý.
Yobbanamadamatto vā, bhikkhave, assutavā puthujjano kāyena duccaritaṁ carati, vācāya duccaritaṁ carati, manasā duccaritaṁ carati.

Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
So kāyena duccaritaṁ caritvā, vācāya duccaritaṁ caritvā, manasā duccaritaṁ caritvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati.

Say sưa trong Kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý. Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Ārogyamadamatto vā, bhikkhave, assutavā puthujjano …pe…

Say sưa trong Kiêu mạn của sự sống, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý.
jīvitamadamatto vā, bhikkhave, assutavā puthujjano kāyena duccaritaṁ carati, vācāya duccaritaṁ carati, manasā duccaritaṁ carati.

Do làm các ác hành về thân, làm các ác hành về lời nói, làm các ác hành về ý, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
So kāyena duccaritaṁ caritvā, vācāya duccaritaṁ caritvā, manasā duccaritaṁ caritvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjati.

Say sưa trong Kiêu mạn của tuổi trẻ, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục.
Yobbanamadamatto vā, bhikkhave, bhikkhu sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.

Say sưa trong kiêu mạn của không bệnh, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục.
Ārogyamadamatto vā, bhikkhave, bhikkhu …pe…

Say sưa trong kiêu mạn của đời sống, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo từ bỏ học pháp, trở lui lại đời sống thế tục.
jīvitamadamatto vā, bhikkhave, bhikkhu sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattatīti.

Bị bệnh và bị già,
Byādhidhammā jarādhammā,
Lại còn phải bị chết
atho maraṇadhammino;
Điều ấy lẽ tự nhiên,
Yathādhammā tathāsantā,
Kẻ phàm phu ghê tởm.
jigucchanti puthujjanā.
Nếu ta cũng ghê tởm,
Ahañce taṁ jiguccheyyaṁ,
Chúng sanh bị như vậy,
evaṁdhammesu pāṇisu;
Không xứng đáng cho ta,
Na metaṁ patirūpassa,
Với ta được sống vậy.
mama evaṁ vihārino.
Nên ta sống như thật.
Sohaṁ evaṁ viharanto,
Biết pháp không sanh y;
ñatvā dhammaṁ nirūpadhiṁ;
Vô bệnh và tuổi trẻ,
Ārogye yobbanasmiñca,
Kiêu ngạo bởi sanh mệnh,
jīvitasmiñca ye madā.
Tất cả ta nhiếp phục,
Sabbe made abhibhosmi,
Thấy xuất ly an ổn.
Nekkhamme daṭṭhu khemataṁ;
Nơi ta khởi tinh tấn
Tassa me ahu ussāho,
Vì ta thấy Niết-bàn.
Nibbānaṁ abhipassato.
Ta không còn có thể

Nāhaṁ bhabbo etarahi,
Thọ hưởng các dục vọng;
Kāmāni paṭisevituṁ;
Ta sẽ không trở lui;
Anivatti bhavissāmi,
Ðích Phạm hạnh ta đến.”
Brah­ma­cariya­parā­ya­ṇo”­ti­.

Navamaṁ.