WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 3.40 Tăng Thượng

Bài Kinh Số 3.40
Aṅguttara Nikāya 3.40

4. Phẩm Sứ Giả Của Trời
4. Devadūtavagga

Tăng Thượng
Ādhipateyyasutta

“Này các Tỷ-kheo, có ba tăng thượng này. Thế nào là ba?
“Tīṇimāni, bhikkhave, ādhipateyyāni. Katamāni tīṇi?

Ngã tăng thượng, thế giới tăng thượng, pháp tăng thượng.
Attādhipateyyaṁ, lokādhipateyyaṁ, dhammādhipateyyaṁ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ngã tăng thượng?
Katamañca, bhikkhave, attādhipateyyaṁ?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, quan sát như sau:
Idha, bhikkhave, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati:

‘Không phải vì y áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
‘na kho panāhaṁ cīvarahetu agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Không phải vì món ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, (nhưng với ý nghĩ như sau):
Na piṇḍapātahetu, na senāsanahetu, na itibhavābhavahetu agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, rơi vào khổ, bị khổ chi phối.
Api ca khomhi otiṇṇo jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto.

Có thể do làm như vậy, sự đoạn tận tất cả khổ uẩn này được hiện khởi lên (cho ta).
Appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa antakiriyā paññāyethāti.

Và ta đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, sau khi đã đoạn tận tất cả các dục vọng như vậy, lại còn đeo đuổi các dục vọng như kia hay còn ác tệ hơn. Như vậy, thật không xứng đáng cho ta.’
Ahañceva kho pana yādisake kāme ohāya agārasmā anagāriyaṁ pabbajito tādisake vā kāme pariyeseyyaṁ tato vā pāpiṭṭhatare, na metaṁ patirūpan’ti.

Vị ấy quan sát như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm.’
‘āraddhaṁ kho pana me vīriyaṁ bhavissati asallīnaṁ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṁ cittaṁ ekaggan’ti.

Vị ấy làm cho tăng thượng tự ngã, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, gìn giữ cho tự ngã được thanh tịnh.
So attānaṁyeva adhipatiṁ karitvā akusalaṁ pajahati, kusalaṁ bhāveti, sāvajjaṁ pajahati, anavajjaṁ bhāveti, suddhaṁ attānaṁ pariharati.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là tự ngã tăng thượng.
Idaṁ vuccati, bhikkhave, attādhipateyyaṁ.

Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là thế giới tăng thượng?
Katamañca, bhikkhave, lokādhipateyyaṁ?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, rồi thẩm sát như sau:
Idha, bhikkhave, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati:

‘Không phải vì y áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
‘na kho panāhaṁ cīvarahetu agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Không phải vì món ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, (nhưng với ý nghĩ như sau):
Na piṇḍapātahetu, na senāsanahetu, na itibhavābhavahetu agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, rơi vào khổ, bị khổ chi phối.
Api ca khomhi otiṇṇo jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto.

Có thể làm như vậy, đoạn tận của tất cả khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta.
Appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa antakiriyā paññāyethā’ti.

Và ta đã xuất gia như vậy, lại có thể suy nghĩ về dục tầm hay có thể suy nghĩ về sân tầm, hay có thể suy nghi về hại tầm. To lớn là đại chúng này sống ở trong đời.
Ahañceva kho pana evaṁ pabbajito samāno kāmavitakkaṁ vā vitakkeyyaṁ, byāpādavitakkaṁ vā vitakkeyyaṁ, vihiṁsāvitakkaṁ vā vitakkeyyaṁ, mahā kho panāyaṁ lokasannivāso.

Trong đại chúng sống ở đời, có các vị Sa-môn, Bà-la-môn có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông.
Mahantasmiṁ kho pana lokasannivāse santi samaṇabrāhmaṇā iddhimanto dibbacakkhukā paracittaviduno.

Các vị này có thể thấy từ xa, tuy ở gần nhưng không thể thấy chúng được, và chúng có thể biết tâm ta với tâm của chúng.
Te dūratopi passanti, āsannāpi na dissanti, cetasāpi cittaṁ pajānanti.

Chúng biết về ta như sau:
Tepi maṁ evaṁ jāneyyuṁ:

“Hãy xem thiện nam tử này, tuy vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng sống xen lẫn với các pháp ác, bất thiện.”
‘passatha, bho, imaṁ kulaputtaṁ saddhā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito samāno vokiṇṇo viharati pāpakehi akusalehi dhammehī’ti.

Lại có các chư Thiên có thần thông, có thiên nhãn, có tha tâm thông.
devatāpi kho santi iddhimantiniyo dibbacakkhukā paracittaviduniyo.

Các vị này có thể thấy từ xa, tuy ở gần nhưng không thấy chúng được, và chúng có thể biết tâm ta với tâm của chúng.
Tā dūratopi passanti, āsannāpi na dissanti, cetasāpi cittaṁ jānanti.

Các vị ấy có thể biết về ta như sau:
Tāpi maṁ evaṁ jāneyyuṁ:

“Hãy xem thiện nam tử này, tuy vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, nhưng sống xen lẫn với các pháp ác, bất thiện.”’
‘passatha, bho, imaṁ kulaputtaṁ saddhā agārasmā anagāriyaṁ pabbajito samāno vokiṇṇo viharati pāpakehi akusalehi dhammehī’ti.

Vị ấy lại quan sát như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm.’
‘āraddhaṁ kho pana me vīriyaṁ bhavissati asallīnaṁ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṁ cittaṁ ekaggan’ti.

Vị ấy làm cho tăng thượng thế giới, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không có tội, giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh.
So lokaṁyeva adhipatiṁ karitvā akusalaṁ pajahati, kusalaṁ bhāveti, sāvajjaṁ pajahati, anavajjaṁ bhāveti, suddhaṁ attānaṁ pariharati.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là thế giới tăng thượng.
Idaṁ vuccati, bhikkhave, lokādhipateyyaṁ.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp tăng thượng?
Katamañca, bhikkhave, dhammādhipateyyaṁ?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo đi đến ngôi rừng hay đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, rồi thẩm sát như sau:
Idha, bhikkhave, bhikkhu araññagato vā rukkhamūlagato vā suññāgāragato vā iti paṭisañcikkhati:

‘Không phải vì y áo, ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
‘na kho panāhaṁ cīvarahetu agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Không phải vì món ăn khất thực, không phải vì sàng tọa, không phải vì nhân có mặt hay không có mặt ở đây mà ta xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, (nhưng với ý nghĩ như sau):
Na piṇḍapātahetu, na senāsanahetu, na itibhavābhavahetu agārasmā anagāriyaṁ pabbajito.

Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, rơi vào khổ, bị khổ chi phối.
Api ca khomhi otiṇṇo jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi, dukkhotiṇṇo dukkhapareto.

Có thể do làm như vậy, đoạn tận tất cả các khổ uẩn này được hiện khởi lên cho ta.
Appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa antakiriyā paññāyethāti.

Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, có kết quả ngay tức thời, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người có trí tự mình giác hiểu.
Svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṁ veditabbo viññūhīti.

Nay ta có những người đồng Phạm hạnh, chúng sống biết và thấy.
Santi kho pana me sabrahmacārī jānaṁ passaṁ viharanti.

Ta đã được xuất gia trong pháp và Luật khéo giảng như vậy, không lẽ ta lại có thể sống biếng nhác phóng dật. Như vậy, thật không xứng đáng cho ta.’
Ahañceva kho pana evaṁ svākkhāte dhammavinaye pabbajito samāno kusīto vihareyyaṁ pamatto, na metaṁ assa patirūpan’ti.

Vị ấy lại quán sát như sau:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Thắng tấn là tinh tấn của ta, không có thụ động; an trú là niệm của ta, không có thất niệm; khinh an là thân của ta, không có dao động; định tĩnh là tâm của ta, được nhứt tâm.’
‘āraddhaṁ kho pana me vīriyaṁ bhavissati asallīnaṁ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṁ cittaṁ ekaggan’ti.

Vị ấy làm cho tăng thượng pháp, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện, từ bỏ có tội, tu tập không tội, giữ gìn cho tự ngã được thanh tịnh.
So dhammaṁyeva adhipatiṁ karitvā akusalaṁ pajahati, kusalaṁ bhāveti, sāvajjaṁ pajahati, anavajjaṁ bhāveti, suddhaṁ attānaṁ pariharati.

Này các Tỷ-kheo, đây gọi là pháp tăng thượng.
Idaṁ vuccati, bhikkhave, dhammādhipateyyaṁ.

Này các Tỷ-kheo, có ba pháp tăng thượng này.
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi ādhipateyyānīti.

Trên đời không giấu được,
Natthi loke raho nāma,
Ác nghiệp tự mình làm.
pāpakammaṁ pakubbato;
Ngã của ngươi ta biết,
Attā te purisa jānāti,
Là thật hay là giả.
saccaṁ vā yadi vā musā.
Ngươi thật khinh thiện ngã,
Kalyāṇaṁ vata bho sakkhi,
Mặt giáp mặt chứng kiến,
attānaṁ atimaññasi;
Muốn che giấu tự ngã,
Yo santaṁ attani pāpaṁ,
Ðiều ác tự ngã làm.
attānaṁ parigūhasi.
Chư Thiên và Như Lai,
Passanti devā ca tathāgatā ca,
Thấy rõ ở trong đời,
Sở hành của kẻ ngu,
Làm các hạng tà vậy,
Lokasmiṁ bālaṁ visamaṁ carantaṁ;
Vậy vị ngã tăng thượng,
Sở hành phải chánh niệm;
Tasmā hi attādhipateyyako ca,
Vị thế giới tăng thượng,
Hãy khôn khéo, Thiền tịnh;
Lokādhipo ca nipako ca jhāyī;
Với vị pháp tăng thượng,
Hãy sống theo tùy pháp;
Dhammādhipo ca anudhammacārī,
Ðại sĩ không thối thất,
Tinh cần theo chân lý.
Na hīyati saccaparakkamo muni.
Nhiếp phục được ma quân,
Chiến thắng được tử thần.
Pasayha māraṁ abhibhuyya antakaṁ,
Với tinh cần tinh tấn,
Sanh đã được đoạn tận.
Yo ca phusī jātikkhayaṁ padhānavā;
Bậc đạo sĩ như vậy,
Hiểu thế gian diệu chí.
So tādiso lokavidū sumedho,
Ðối với tất cả pháp,
Không có gì xúc phạm.”
Sabbesu dhammesu atammayo munī”ti.

Dasamaṁ

DEVADŪTAVAGGO CATUTTHO

Tassuddānaṁ

Brahma ānanda sāriputto,
Nidānaṁ hatthakena ca;
Dūtā duve ca rājāno,
Sukhumālā­dhi­­pa­te­y­yena cāti.