Tăng Chi Bộ 3.50
Aṅguttara Nikāya 3.50
5. Tiểu Phẩm
5. Cūḷavagga
Giặc Cướp
Mahācorasutta
“Do đầy đủ ba điều kiện, này các Tỷ-kheo, một tên cướp lớn có thể chặt được khóa cửa, mang đi được đồ ăn trộm, làm kẻ cướp trộm một nhà, làm kẻ đứng đường chận cướp. Thế nào là ba?
“Tīhi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato mahācoro sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati. Katamehi tīhi?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào quanh co hiểm trở, dựa vào rừng rậm, dựa vào kẻ có quyền lực.
Idha, bhikkhave, mahācoro visamanissito ca hoti, gahananissito ca hoti, balavanissito ca hoti.
Và thế nào, này các Tỷ-kheo, là tên cướp lớn dựa vào quanh co hiểm trở?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro visamanissito hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào con sông khó lội qua, hay sự quanh co hiểm trở của núi non.
Idha, bhikkhave, mahācoro nadīviduggaṁ vā nissito hoti pabbatavisamaṁ vā.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là tên cướp lớn dựa vào sự quanh co hiểm trở.
Evaṁ kho, bhikkhave, mahācoro visamanissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tên cướp lớn dựa vào rừng rậm?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro gahananissito hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào rừng rậm cỏ, hay rừng rậm cây, hay khóm rừng, hay đám rừng lớn rậm.
Idha, bhikkhave, mahācoro tiṇagahanaṁ vā nissito hoti, rukkhagahanaṁ vā rodhaṁ vā mahāvanasaṇḍaṁ vā.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào rừng rậm.
Evaṁ kho, bhikkhave, mahācoro gahananissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tên cướp lớn dựa vào kẻ có quyền lực?
Kathañca, bhikkhave, mahācoro balavanissito hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào vua hay các vị đại thần của vua.
Idha, bhikkhave, mahācoro rājānaṁ vā rājamahāmattānaṁ vā nissito hoti.
Nghĩ như sau:
Tassa evaṁ hoti:
‘Nếu có ai kết tội ta, các vua ấy hay các vị đại thần của vua ấy sẽ giải thích, cứu thoát ta.’
‘sace maṁ koci kiñci vakkhati, ime me rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṁ bhaṇissantī’ti.
Và thực sự là như vậy.
Sace naṁ koci kiñci āha, tyāssa rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṁ bhaṇanti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, tên cướp lớn dựa vào kẻ có quyền lực.
Evaṁ kho, bhikkhave, mahācoro balavanissito hoti.
Do đầy đủ ba điều kiện này, này các Tỷ-kheo, một tên cướp lớn có thể chặt được khóa cửa, mang đi được đồ ăn trộm, làm kẻ cướp trộm một nhà, làm kẻ đứng đường chận cướp.
Ime kho, bhikkhave, tīhi aṅgehi samannāgato mahācoro sandhimpi chindati, nillopampi harati, ekāgārikampi karoti, paripanthepi tiṭṭhati.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị ác Tỷ-kheo đầy đủ ba pháp, tự mình xử sự như một vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và tạo nên nhiều điều vô phước. Thế nào là ba?
Evamevaṁ kho, bhikkhave, tīhi aṅgehi samannāgato pāpabhikkhu khataṁ upahataṁ attānaṁ pariharati, sāvajjo ca hoti sānuvajjo ca viññūnaṁ, bahuñca apuññaṁ pasavati. Katamehi tīhi?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo dựa vào quanh co hiểm trở, dựa vào rừng rậm và dựa vào kẻ có quyền lực.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu visamanissito ca hoti gahananissito ca balavanissito ca.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào sự hiểm trở?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu visamanissito hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo đầy đủ với thân hành quanh co hiểm trở, với ngữ hành quanh co hiểm trở, với ý hành quanh co hiểm trở.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu visamena kāyakammena samannāgato hoti, visamena vacīkammena samannāgato hoti, visamena manokammena samannāgato hoti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào quanh co hiểm trở.
Evaṁ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu visamanissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu gahananissito hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo có tà kiến, đầy đủ những tri kiến đi đến cực đoan.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu micchādiṭṭhiko hoti, antaggāhikāya diṭṭhiyā samannāgato hoti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là các Tỷ-kheo dựa vào rừng rậm.
Evaṁ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu gahananissito hoti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ có quyền?
Kathañca, bhikkhave, pāpabhikkhu balavanissito hoti?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, dựa vào các vua hay các đại thần của vua.
Idha, bhikkhave, pāpabhikkhu rājānaṁ vā rājamahāmattānaṁ vā nissito hoti.
Nghĩ như sau:
Tassa evaṁ hoti:
‘Nếu có ai kết tội ta, các vua ấy, hay các đại thần của vua ấy sẽ giải thích, cứu thoát ta.’
‘sace maṁ koci kiñci vakkhati, ime me rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṁ bhaṇissantī’ti.
Và thực sự là như vậy.
Sace naṁ koci kiñci āha, tyāssa rājāno vā rājamahāmattā vā pariyodhāya atthaṁ bhaṇanti.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là ác Tỷ-kheo dựa vào kẻ có quyền lực.
Evaṁ kho, bhikkhave, pāpabhikkhu balavanissito hoti.
Ðầy đủ ba pháp này, này các Tỷ-kheo, ác Tỷ-kheo tự mình xử sự như một vật mất gốc, bị thương tích, phạm tội, bị kẻ trí quở trách, và tạo nên nhiều điều vô phước.”
Imehi kho, bhikkhave, tīhi dhammehi samannāgato pāpabhikkhu khataṁ upahataṁ attānaṁ pariharati, sāvajjo ca hoti sānuvajjo ca viññūnaṁ, bahuñca apuññaṁ pasavatī”ti.
Ekādasamaṁ
CŪḶAVAGGO PAÑCAMO
Tassuddānaṁ
Sammukhī ṭhānatthavasaṁ,
pavatti paṇḍita sīlavaṁ;
Saṅkhataṁ pabbatātappaṁ,
mahācorenekādasāti.
PAṬHAMO PAṆṆĀSAKO SAMATTO