WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 5.197 Mưa

Tăng Chi Bộ 5.197
Aṅguttara Nikāya 5.197

20. Phẩm Bà-la-môn
20. Brāhmaṇavagga

Mưa
Vassasutta

“1. Có năm chướng ngại cho mưa này, các người đoán tướng không biết được, ở đây, mắt của những người đoán tướng không thể kham nhẫn. Thế nào là năm?
“Pañcime, bhikkhave, vassassa antarāyā, yaṁ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṁ cakkhu na kamati. Katame pañca?

2. Trên hư không, này các Tỷ-kheo, hỏa giới phẫn nộ. Do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn.
Upari, bhikkhave, ākāse tejodhātu pakuppati. Tena uppannā meghā paṭivigacchanti.

Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ nhất cho mưa, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt của những người đoán tướng không thể kham nhẫn.
Ayaṁ, bhikkhave, paṭhamo vassassa antarāyo, yaṁ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṁ cakkhu na kamati.

3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, trên hư không, phong giới phẫn nộ. Do vậy các mây đã khởi lên bị tán loạn.
Puna caparaṁ, bhikkhave, upari ākāse vāyodhātu pakuppati. Tena uppannā meghā paṭivigacchanti.

Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ hai cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của những người đoán tướng không thể kham nhẫn.
Ayaṁ, bhikkhave, dutiyo vassassa antarāyo, yaṁ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṁ cakkhu na kamati.

4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Rāhu, vua các loài A-tu-la dùng tay thâu lấy nước rồi đổ xuống biển lớn.
Puna caparaṁ, bhikkhave, rāhu asurindo pāṇinā udakaṁ sampaṭicchitvā mahāsamudde chaḍḍeti.

Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ ba cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của những người đoán tướng không thể kham nhẫn.
Ayaṁ, bhikkhave, tatiyo vassassa antarāyo, yaṁ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṁ cakkhu na kamati.

5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, chư Thiên của các loại mây đem mưa trở thành biếng nhác.
Puna caparaṁ, bhikkhave, vassavalāhakā devā pamattā honti.

Ðây là chướng ngại thứ tư cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của những người đoán tướng không thể kham nhẫn.
Ayaṁ, bhikkhave, catuttho vassassa antarāyo, yaṁ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṁ cakkhu na kamati.

6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, khi loài Người trở thành phi pháp.
Puna caparaṁ, bhikkhave, manussā adhammikā honti.

Này các Tỷ-kheo, đây là chướng ngại thứ năm cho mưa, các người đoán tướng không biết được, mắt của những người đoán tướng không thể kham nhẫn.
Ayaṁ, bhikkhave, pañcamo vassassa antarāyo, yaṁ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṁ cakkhu na kamati.

Này các Tỷ-kheo, có năm chướng ngại cho mưa này, các người đoán tướng không biết được, ở đây mắt của những người đoán tướng không thể kham nhẫn.”
Ime kho, bhikkhave, pañca vassassa antarāyā, yaṁ nemittā na jānanti, yattha nemittānaṁ cakkhu na kamatī”ti.

Sattamaṁ.