WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 6.26 Mahākaccāna

Tăng Chi Bộ 6.26
Aṅguttara Nikāya 6.26

3. Phẩm Trên Tất Cả
3. Anuttariyavagga

Mahākaccāna
Mahākaccānasutta

1. Tại đấy, Tôn giả Mahākaccāna gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho āyasmā mahākaccāno bhikkhū āmantesi:

“Chư Hiền giả Tỷ-kheo!”
“āvuso bhikkhave”ti.

“Thưa vâng, Hiền giả,” các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahākaccāna.
“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa paccassosuṁ.

Tôn giả Mahākaccāna nói như sau:
Āyasmā mahākaccāno etadavoca:

“2. Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả!
“acchariyaṁ, āvuso; abbhutaṁ, āvuso.

Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy, các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ. Thế nào là sáu?
Yāvañcidaṁ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sambādhe okāsādhigamo anubuddho sattānaṁ visuddhiyā sokaparidevānaṁ samatikkamāya dukkhadomanassānaṁ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṁ cha anussatiṭṭhānāni. Katamāni cha?

3. Ở đây, này các Hiền giả, Thánh đệ tử niệm Như Lai:
Idhāvuso, ariyasāvako tathāgataṁ anussarati:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán… Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā …pe… satthā devamanussānaṁ buddho bhagavā’ti.

Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân hận chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṁ, āvuso, samaye ariyasāvako tathāgataṁ anussarati nevassa tasmiṁ samaye rāgapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti;

trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṁ samaye cittaṁ hoti, nikkhantaṁ muttaṁ vuṭṭhitaṁ gedhamhā.

‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṁ kāmaguṇānaṁ adhivacanaṁ.

Thánh đệ tử ấy, này chư Hiền, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.

Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṁ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.

4. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Pháp:
Puna caparaṁ, āvuso, ariyasāvako dhammaṁ anussarati:

‘Pháp được Thế Tôn khéo thuyết… được các người có trí tự mình giác hiểu.’
‘svākkhāto bhagavatā dhammo …pe… paccattaṁ veditabbo viññūhī’ti.

Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si phối.
Yasmiṁ, āvuso, samaye ariyasāvako dhammaṁ anussarati nevassa tasmiṁ samaye rāgapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti;

Trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṁ samaye cittaṁ hoti, nikkhantaṁ muttaṁ vuṭṭhitaṁ gedhamhā.

‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṁ kāmaguṇānaṁ adhivacanaṁ.

Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.

Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṁ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.

5. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Tăng:
Puna caparaṁ, āvuso, ariyasāvako saṅghaṁ anussarati:

Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn… là ruộng phước vô thượng ở đời.’
‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho …pe… anuttaraṁ puññakkhettaṁ lokassā’ti.

Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Tăng, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si phối.
Yasmiṁ, āvuso, samaye ariyasāvako saṅghaṁ anussarati nevassa tasmiṁ samaye rāgapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti;

Trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṁ samaye cittaṁ hoti, nikkhantaṁ muttaṁ vuṭṭhitaṁ gedhamhā.

‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṁ kāmaguṇānaṁ adhivacanaṁ.

Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.

Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṁ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.

6. Lại nữa, này chư hiền, vị Thánh đệ tử niệm Giới: ‘Giới không bị bể vụn… đưa đến Thiền định’.
Puna caparaṁ, āvuso, ariyasāvako attano sīlāni anussarati akhaṇḍāni …pe… samādhisaṁvattanikāni.

Khi nào, này chư hiền, vị Thánh đệ tử niệm Giới, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṁ, āvuso, samaye ariyasāvako attano sīlaṁ anussarati nevassa tasmiṁ samaye rāgapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti;

trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṁ samaye cittaṁ hoti, nikkhantaṁ muttaṁ vuṭṭhitaṁ gedhamhā.

‘Tham’, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṁ kāmaguṇānaṁ adhivacanaṁ.

Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.

Do lấy cái này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṁ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.

7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình tùy niệm thí của mình: “Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta…
Puna caparaṁ, āvuso, ariyasāvako attano cāgaṁ anussarati: ‘lābhā vata me, suladdhaṁ vata me …pe…

giữa những người bỏn xẻn ta sống không bỏn xẻn, sống quảng đại, cởi mở, thích buông xả, sống bác ái, thích cho đi và chia sẻ.’
yācayogo dānasaṁvibhāgarato’ti.

Khi nào, này chư hiền, vị Thánh đệ tử niệm Thí, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṁ, āvuso, samaye ariyasāvako attano cāgaṁ anussarati nevassa tasmiṁ samaye rāgapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti;

trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṁ samaye cittaṁ hoti, nikkhantaṁ muttaṁ vuṭṭhitaṁ gedhamhā.

‘Tham’, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṁ kāmaguṇānaṁ adhivacanaṁ.

Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.

Do lấy cái này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṁ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.

8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Thiên:
Puna caparaṁ, āvuso, ariyasāvako devatā anussarati:

‘Có bốn Thiên vương, có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yāma, có chư Thiên Tusitā (Ðâu-suất), có chư Thiên Hóa Lạc Thiên, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa.
‘santi devā cātumahārājikā, santi devā …pe… tatuttari.

Ðầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Ðầy đủ với giới, với nghe pháp, với thí, với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta.’
Yathārūpāya saddhāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā; mayhampi tathārūpā saddhā saṁvijjati. Yathārūpena sīlena … sutena … cāgena … paññāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā; mayhampi tathārūpā paññā saṁvijjatī’ti.

Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṁ, āvuso, samaye ariyasāvako attano ca tāsañca devatānaṁ saddhañca sīlañca sutañca cāgañca paññañca anussarati nevassa tasmiṁ samaye rāgapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṁ cittaṁ hoti;

trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṁ samaye cittaṁ hoti, nikkhantaṁ muttaṁ vuṭṭhitaṁ gedhamhā.

‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với các dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṁ kāmaguṇānaṁ adhivacanaṁ.

Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.

Này chư Hiền, lấy tư tưởng này làm đối tượng, ở đây, một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṁ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.

Thật vi diệu thay, này chư Hiền! Thật hy hữu thay, này chư Hiền!
Acchariyaṁ, āvuso, abbhutaṁ, āvuso.

Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy các loài hữu tình được thanh tịnh vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ.”
Yāvañcidaṁ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sambādhe okāsādhigamo anubuddho sattānaṁ visuddhiyā sokaparidevānaṁ samatikkamāya dukkhadomanassānaṁ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṁ cha anussatiṭṭhānānī”ti.

Chaṭṭhaṁ.