WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 6.29 Udāyī

Tăng Chi Bộ 6.29
Aṅguttara Nikāya 6.29

3. Phẩm Trên Tất Cả
3. Anuttariyavagga

Udāyī
Udāyīsutta

1. Rồi Thế Tôn gọi Tôn giả Udāyī:
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ udāyiṁ āmantesi:

“Này Udāyī, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
“kati nu kho, udāyi, anussatiṭṭhānānī”ti?

Ðược nói vậy, Tôn giả Udāyī giữ im lặng.
Evaṁ vutte, āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.

Lần thứ hai, Thế Tôn bảo Tôn giả Udāyī:
Dutiyampi kho bhagavā āyasmantaṁ udāyiṁ āmantesi:

“Này Udāyī, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
“kati nu kho, udāyi, anussatiṭṭhānānī”ti?

Lần thứ hai, Tôn giả Udāyī giữ im lặng.
Dutiyampi kho āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.

Lần thứ ba, Thế Tôn bảo Tôn giả Udāyī:
Tatiyampi kho bhagavā āyasmantaṁ udāyiṁ āmantesi:

“Này Udāyī, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
“kati nu kho, udāyi, anussatiṭṭhānānī”ti?

Cả hai lần trước và lần thứ ba, Tôn giả Udāyī giữ im lặng.
Tatiyampi kho āyasmā udāyī tuṇhī ahosi.

Rồi Tôn giả Ānanda nói với Tôn giả Udāyī:
Atha kho āyasmā ānando āyasmantaṁ udāyiṁ etadavoca:

“Này Hiền giả Udāyī, Thế Tôn gọi Hiền giả!”
“satthā taṁ, āvuso udāyi, āmantesī”ti.

“Thưa Hiền giả Ānanda, tôi có nghe Thế Tôn gọi.
“Suṇomahaṁ, āvuso ānanda, bhagavato.

Bạch Thế Tôn, khi Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời trước ở quá khứ như một đời, hai đời… vị ấy nhớ nhiều đời trước với các nét đại cương và các chi tiết.
Idha, bhante, bhikkhu anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati—Seyyathidaṁ—ekampi jātiṁ dvepi jātiyo …pe…. Iti sākāraṁ sauddesaṁ anekavihitaṁ pubbenivāsaṁ anussarati.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm.”
Idaṁ, bhante, anussatiṭṭhānan”ti.

Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ānanda::
Atha kho bhagavā āyasmantaṁ ānandaṁ āmantesi:

“Ta đã biết, này Ānanda, kẻ ngu Udāyī này không sống chuyên tâm vào tăng thượng tâm.
“aññāsiṁ kho ahaṁ, ānanda: ‘nevāyaṁ udāyī moghapuriso adhicittaṁ anuyutto viharatī’ti.

Này Ānanda, có bao nhiêu chỗ để tùy niệm?”
Kati nu kho, ānanda, anussatiṭṭhānānī”ti?

“Bạch Thế Tôn, có năm chỗ để tùy niệm. Thế nào là năm?
“Pañca, bhante, anussatiṭṭhānāni. Katamāni pañca?

2. Ở đây, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ly dục, ly pháp bất thiện… chứng đạt và an trú Thiền thứ ba.
Idha, bhante, bhikkhu vivicceva kāmehi …pe… tatiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn, đưa đến hiện tại lạc trú.
Idaṁ, bhante, anussatiṭṭhānaṁ evaṁ bhāvitaṁ evaṁ bahulīkataṁ diṭṭhadhammasukhavihārāya saṁvattati.

3. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo tác ý với tưởng ánh sáng, trú vào tưởng ban ngày. Ngày như thế nào thời đêm như vậy. Ðêm như thế nào thời ngày như vậy.
“Puna caparaṁ, bhante, bhikkhu ālokasaññaṁ manasi karoti, divā saññaṁ adhiṭṭhāti, yathā divā tathā rattiṁ, yathā rattiṁ tathā divā;

Như vậy, với tâm rộng mở, không có hạn chế, vị ấy tu tập tâm với ánh sáng, chiếu sáng.
iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṁ cittaṁ bhāveti.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm cho sung mãn, đưa đến chứng đắc tri kiến.
Idaṁ, bhante, anussatiṭṭhānaṁ evaṁ bhāvitaṁ evaṁ bahulīkataṁ ñāṇadassanappaṭilābhāya saṁvattati.

4. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo quán sát thân này từ bàn chân trở lên trên, từ đảnh tóc trở xuống, được da bọc và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt. Trong thân này:
Puna caparaṁ, bhante, bhikkhu imameva kāyaṁ uddhaṁ pādatalā adho kesamatthakā tacapariyantaṁ pūraṁ nānappakārassa asucino paccavekkhati:

‘Đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mũ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu.’
‘atthi imasmiṁ kāye kesā lomā nakhā dantā taco, maṁsaṁ nhāru aṭṭhi aṭṭhimiñjaṁ vakkaṁ, hadayaṁ yakanaṁ kilomakaṁ pihakaṁ papphāsaṁ, antaṁ antaguṇaṁ udariyaṁ karīsaṁ, pittaṁ semhaṁ pubbo lohitaṁ sedo medo, assu vasā kheḷo siṅghāṇikā lasikā muttan’ti.

Bạch Thế Tôn, đây là chỗ để tùy niệm, tu tập như vậy, làm sung mãn như vậy, đưa đến đoạn tận tham dục.
Idaṁ, bhante, anussatiṭṭhānaṁ evaṁ bhāvitaṁ evaṁ bahulīkataṁ kāmarāgappahānāya saṁvattati.

5. Lại nữa, bạch Thế Tôn, ví như vị Tỷ-kheo thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, một ngày hay hai ngày, ba ngày, thi thể ấy trương phồng lên, xanh ứ lại, thối ra mủ chảy.
Puna caparaṁ, bhante, bhikkhu seyyathāpi passeyya sarīraṁ sivathikāya chaṭṭitaṁ ekāhamataṁ vā dvīhamataṁ vā tīhamataṁ vā uddhumātakaṁ vinīlakaṁ vipubbakajātaṁ.

Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau:
So imameva kāyaṁ evaṁ upasaṁharati:

‘Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy.’
‘ayampi kho kāyo evaṁdhammo evaṁbhāvī evaṁanatīto’ti.

Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, bị các loại quạ ăn; hay bị các loài diều hâu ăn; hay bị các chim kên ăn; hay bị các loài chó ăn; hay bị các loài dã can ăn; hay bị các loài côn trùng ăn.
Seyyathāpi vā pana passeyya sarīraṁ sīvathikāya chaṭṭitaṁ kākehi vā khajjamānaṁ kulalehi vā khajjamānaṁ gijjhehi vā khajjamānaṁ sunakhehi vā khajjamānaṁ siṅgālehi vā khajjamānaṁ vividhehi vā pāṇakajātehi khajjamānaṁ.

Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau: “Thân này tánh chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”.
So imameva kāyaṁ evaṁ upasaṁharati: ‘ayampi kho kāyo evaṁdhammo evaṁbhāvī evaṁanatīto’ti.

Ví như vị ấy thấy một thi thể quăng bỏ trong nghĩa địa, với các xương còn liên kết với nhau, còn dính thịt và máu, còn được các đường gân cột lại;
Seyyathāpi vā pana passeyya sarīraṁ sīvathikāya chaṭṭitaṁ aṭṭhikasaṅkhalikaṁ samaṁsalohitaṁ nhārusambandhaṁ …pe…

với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn dính thịt, nhưng còn dính máu, còn được các đường gân cột lại;
aṭṭhikasaṅkhalikaṁ nimmaṁsalohitamakkhitaṁ nhārusambandhaṁ …

với các bộ xương còn liên kết với nhau, không còn thịt và máu, còn được các đường gân cột lại;
aṭṭhikasaṅkhalikaṁ apagatamaṁsalohitaṁ nhārusambandhaṁ.

chỉ còn xương không dính lại với nhau, rải rác chỗ này chỗ kia. Ở đây, là xương tay, ở đây là xương chân, ở đây là xương ống, ở đây là xương bắp vế, ở đây là xương mông, ở đây là xương sống, ở đây là xương cánh tay, ở đây là xương cổ, ở đây là xương hàm, ở đây là răng, ở đây là hộp sọ, ở đây là xương trắng màu vỏ ốc, ở đây là xương mục nát, ở đây là xương chất thành đống, ở đây là xương mục nát và vỡ vụn thành bột.
Aṭṭhikāni apagatasambandhāni disāvidisāvikkhittāni, aññena hatthaṭṭhikaṁ aññena pādaṭṭhikaṁ aññena jaṅghaṭṭhikaṁ aññena ūruṭṭhikaṁ aññena kaṭiṭṭhikaṁ aññena phāsukaṭṭhikaṁ aññena piṭṭhikaṇṭakaṭṭhikaṁ aññena khandhaṭṭhikaṁ aññena gīvaṭṭhikaṁ aññena hanukaṭṭhikaṁ aññena dantakaṭṭhikaṁ aññena sīsakaṭāhaṁ, aṭṭhikāni setāni saṅkhavaṇṇappaṭibhāgāni aṭṭhikāni puñjakitāni terovassikāni aṭṭhikāni pūtīni cuṇṇakajātāni.

Tỷ-kheo ấy đem so sánh với thân này như sau: “Thân này bản chất là như vậy, bản tánh là như vậy, không vượt khỏi tánh chất ấy”.
So imameva kāyaṁ evaṁ upasaṁharati: ‘ayampi kho kāyo evaṁdhammo evaṁbhāvī evaṁanatīto’ti.

Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến nhổ tận gốc kiêu mạn “Tôi là”.
Idaṁ, bhante, anussatiṭṭhānaṁ evaṁ bhāvitaṁ evaṁ bahulīkataṁ asmimānasamugghātāya saṁvattati.

6. Lại nữa, bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo bỏ lạc, bỏ khổ… chứng đạt và an trú Thiền thứ tư.
Puna caparaṁ, bhante, bhikkhu sukhassa ca pahānā …pe… catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.

Ðây là chỗ để tùy niệm, bạch Thế Tôn, được tu tập như vậy, được làm cho sung mãn như vậy, đưa đến sự thể nhập hoàn toàn các giới sai khác nhau.
Idaṁ, bhante, anussatiṭṭhānaṁ evaṁ bhāvitaṁ evaṁ bahulīkataṁ anekadhātupaṭivedhāya saṁvattati.

Bạch Thế Tôn, đây là năm chỗ để tùy niệm.”
Imāni kho, bhante, pañca anussatiṭṭhānānī”ti.

“Lành thay, lành thay, này Ānanda!
“Sādhu sādhu, ānanda.

Ðây là chỗ tùy niệm thứ sáu, hãy thọ trì ở đây.
Tena hi tvaṁ, ānanda, idampi chaṭṭhaṁ anussatiṭṭhānaṁ dhārehi.

Này Ānanda, Tỷ-kheo chánh niệm đi ra, chánh niệm đi vào, chánh niệm ngồi, chánh niệm nằm, chánh niệm trong khi làm việc.
Idhānanda, bhikkhu satova abhikkamati satova paṭikkamati satova tiṭṭhati satova nisīdati satova seyyaṁ kappeti satova kammaṁ adhiṭṭhāti.

Này Ānanda, đây là chỗ để tùy niệm, như vậy tu tập, như vậy làm cho sung mãn, được đưa đến chánh niệm tỉnh giác.”
Idaṁ, ānanda, anussatiṭṭhānaṁ evaṁ bhāvitaṁ evaṁ bahulīkataṁ satisampajaññāya saṁvattatī”ti.

Navamaṁ.