WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 6.32 Không Thối Đoạ (1)

Tăng Chi Bộ 6.32
Aṅguttara Nikāya 6.32

4. Phẩm Chư Thiên
4. Devatāvagga

Không Thối Đoạ (1)
Paṭhamaaparihānasutta

1. Rồi một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng, chói sáng toàn vùng Jetavana đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Thiên nhân ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṁ jetavanaṁ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitā kho sā devatā bhagavantaṁ etadavoca:

“Có sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa. Thế nào là sáu?
“Chayime, bhante, dhammā bhikkhuno aparihānāya saṁvattanti. Katame cha?

Kính trọng Ðạo Sư, kính trọng Pháp, kính trọng chúng Tăng, kính trọng học pháp, kính trọng không phóng dật, kính trọng tiếp đón.
Satthugāravatā, dhammagāravatā, saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā, appamādagāravatā, paṭisanthāragāravatā—

Sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa.”
ime kho, bhante, cha dhammā bhikkhuno aparihānāya saṁvattantī”ti.

Thiên nhân ấy nói như vậy,
Idamavoca sā devatā.

Bậc Ðạo Sư chấp nhận.
Samanuñño satthā ahosi.

Rồi Thiên nhân ấy nghĩ rằng: “Bậc Ðạo Sư đã chấp nhận ta”, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi biến mất tại chỗ.
Atha kho sā devatā “samanuñño me satthā”ti bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā tatthevantaradhāyi.

2. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã qua, gọi các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena bhikkhū āmantesi:

Ðêm nay, này các Tỷ-kheo, có một Thiên nhân, sau khi đêm đã gần tàn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói với Ta:
“imaṁ, bhikkhave, rattiṁ aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṁ jetavanaṁ obhāsetvā yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhitā kho, bhikkhave, sā devatā maṁ etadavoca:

Có sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa. Thế nào là sáu?
‘chayime, bhante, dhammā bhikkhuno aparihānāya saṁvattanti. Katame cha?

Kính trọng Ðạo Sư, kính trọng Pháp, kính trọng chúng Tăng, kính trọng học pháp, kính trọng không phóng dật, kính trọng tiếp đón.
Satthugāravatā, dhammagāravatā, saṅghagāravatā, sikkhāgāravatā, appamādagāravatā, paṭisanthāragāravatā—

Sáu pháp này, bạch Thế Tôn, không đưa Tỷ-kheo đến thối đọa.
ime kho, bhante, cha dhammā bhikkhuno aparihānāya saṁvattantī’ti.

Này các Tỷ-kheo, Thiên nhân ấy nói như vậy.
Idamavoca, bhikkhave, sā devatā.

Nói như vậy xong, vị ấy đảnh lễ Ta, thân bên hữu hướng về Ta rồi biến mất tại chỗ.
Idaṁ vatvā maṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā tatthevantaradhāyīti.

“Tôn kính Bậc Đạo Sư,
Cung kính Pháp và Tăng,
Satthugaru dhammagaru,
saṅghe ca tibbagāravo;
Tỷ kheo không phóng dật,
Appamādagaru bhikkhu,
Cung kính nghinh tiếp đón,
paṭisanthāragāravo;
Không thể nào thối đoạ,
Abhabbo parihānāya,
Nhất định gần Niết-bàn.”
nibbānasseva santike”ti.

Dutiyaṁ.