Tăng Chi Bộ 6.37
Aṅguttara Nikāya 6.37
4. Phẩm Chư Thiên
4. Devatāvagga
Sáu Phần Bố Thí
Chaḷaṅgadānasutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavata, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Lúc bấy giờ, mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Veḷukaṇṭakī làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, đứng đầu là Sāriputta và Moggallāna.
Tena kho pana samayena veḷukaṇḍakī nandamātā upāsikā sāriputta-moggallāna-ppamukhe bhikkhusaṅghe chaḷaṅga-samannāgataṁ dakkhiṇaṁ patiṭṭhāpeti.
Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Veḷukaṇṭakī làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, đứng đầu là Sāriputta và Moggallāna.
Addasā kho bhagavā dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena veḷukaṇḍakiṁ nandamātaraṁ upāsikaṁ sāriputtamoggallānappamukhe bhikkhusaṅghe chaḷaṅgasamannāgataṁ dakkhiṇaṁ patiṭṭhāpentiṁ.
Sau khi thấy vậy Thế Tôn liền bảo các Tỷ-kheo:
Disvā bhikkhū āmantesi:
“Có mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Veḷukaṇṭakī làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm đầu là Sāriputta và Moggallāna.
“esā, bhikkhave, veḷukaṇḍakī nandamātā upāsikā sāriputtamoggallānappamukhe bhikkhusaṅghe chaḷaṅgasamannāgataṁ dakkhiṇaṁ patiṭṭhāpeti.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng?
Kathañca, bhikkhave, chaḷaṅgasamannāgatā dakkhiṇā hoti?
2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có ba phần thuộc người bố thí và có ba phần thuộc người nhận đồ bố thí.
Idha, bhikkhave, dāyakassa tīṇaṅgāni honti, paṭiggāhakānaṁ tīṇaṅgāni.
Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí?
Katamāni dāyakassa tīṇaṅgāni?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bố thí, trước khi bố thí, ý được vui lòng; trong khi bố thí, tâm được tịnh tín; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ.
Idha, bhikkhave, dāyako pubbeva dānā sumano hoti, dadaṁ cittaṁ pasādeti, datvā attamano hoti.
Ðây là ba phần của người bố thí.
Imāni dāyakassa tīṇaṅgāni.
Thế nào là ba phần của người nhận bố thí?
Katamāni paṭiggāhakānaṁ tīṇaṅgāni?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, những người nhận vật bố thí, đã được ly tham hay đang thực hành hạnh ly tham; đã được ly sân hay đang thực hành hạnh ly sân; đã được ly si hay đang thực hành hạnh ly si.
Idha, bhikkhave, paṭiggāhakā vītarāgā vā honti rāgavinayāya vā paṭipannā, vītadosā vā honti dosavinayāya vā paṭipannā, vītamohā vā honti mohavinayāya vā paṭipannā.
Ðây là ba phần của những người nhận vật bố thí.
Imāni paṭiggāhakānaṁ tīṇaṅgāni.
Như vậy là ba phần của người bố thí và ba phần của những người nhận được vật bố thí.
Iti dāyakassa tīṇaṅgāni, paṭiggāhakānaṁ tīṇaṅgāni.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, là thí vật gồm có sáu phần.
Evaṁ kho, bhikkhave, chaḷaṅgasamannāgatā dakkhiṇā hoti.
3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thực không dễ gì nắm được số lượng về công đức một thí vật gồm có sáu phần như vậy:
Evaṁ chaḷaṅga-samannāgatāya, bhikkhave, dakkhiṇāya na sukaraṁ puññassa pamāṇaṁ gahetuṁ:
‘Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc’;
‘ettako puññābhisando kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko saggasaṁvattaniko iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṁvattatī’ti.
vì rằng cả khối công đức lớn được xem là vô số, vô lượng.
Atha kho asaṅkhyeyyo appameyyo mahā-puññakkhandhotveva saṅkhaṁ gacchati.
Ví như, này các Tỷ-kheo, trong biển lớn, thật không dễ gì nắm lấy một số lượng nước và nói rằng: ‘Có chừng ấy thùng nước, hay có chừng ấy trăm thùng nước, hay có chừng ấy ngàn thùng nước, hay có chừng ấy trăm ngàn thùng nước’;
‘ettakāni udakāḷhakānīti vā ettakāni udakāḷhakasatānīti vā ettakāni udakāḷhaka-sahassānīti vā ettakāni udakāḷhaka-satasahassānī’ti vā.
vì rằng, cả khối lượng lớn nước được xem là vô số, vô lượng.
Atha kho asaṅkhyeyyo appameyyo mahāudakakkhandhotveva saṅkhaṁ gacchati.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì để nắm được số lượng về công đức của một thí vật gồm sáu phần như vậy:
Evamevaṁ kho, bhikkhave, evaṁ chaḷaṅga-samannāgatāya dakkhiṇāya na sukaraṁ puññassa pamāṇaṁ gahetuṁ:
‘Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc’; vì rằng cả khối công đức lớn được xem là vô số, vô lượng.
‘ettako puññābhisando kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko saggasaṁvattaniko iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṁvattatī’ti. Atha kho asaṅkhyeyyo appameyyo mahā-puññakkhandhotveva saṅkhaṁ gacchatī”ti.
“Trước bố thí, ý vui,
“Pubbeva dānā sumano,
Khi bố thí, tâm tín,
dadaṁ cittaṁ pasādaye;
Sau bố thí, hoan hỷ:
Datvā attamano hoti,
Đây bố thí đầy đủ.
esā yaññassa sampadā.
Ly tham và ly sân,
Vītarāgā vītadosā,
Ly si, không lậu hoặc;
vītamohā anāsavā;
Đây bố thí đầy đủ,
Khettaṁ yaññassa sampannaṁ,
Vị phạm hạnh điều phục.
saññatā brahmacārayo.
Sau khi thanh tịnh mình,
Sayaṁ ācamayitvāna,
Tự tay làm bố thí.
datvā sakehi pāṇibhi;
Bố thí vậy quả lớn,
Cho mình và cho người.
Attano parato ceso,
yañño hoti mahapphalo.
Vị có trí, tín tâm,
Bố thí, tâm giải thoát,
Evaṁ yajitvā medhāvī,
saddho muttena cetasā;
Bậc trí đến tái sanh,
Nơi an vui, hạnh phúc.”
Abyāpajjaṁ sukhaṁ lokaṁ,
paṇḍito upapajjatī”ti.
Sattamaṁ.