Tăng Chi Bộ 6.44
Aṅguttara Nikāya 6.44
5. Phẩm Dhammika
5. Dhammikavagga
Migasālā
Migasālāsutta
1. Rồi Tôn giả Ānanda vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của nữ tu sĩ Migasālā; sau khi đến, ngồi trên ghế đã soạn sẵn. Ngồi xuống một bên, nữ cư sĩ Migasālā thưa với Tôn giả Ānanda:
Atha kho āyasmā ānando pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena migasālāya upāsikāya nivesanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Atha kho migasālā upāsikā yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ ānandaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnā kho migasālā upāsikā āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca:
“2. Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết: Cả hai sống Phạm hạnh và sống không phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai?
“Kathaṁ kathaṁ nāmāyaṁ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyaṁ?
Purāṇa, thân phụ của con, thưa Tôn giả, sống Phạm hạnh, sống biệt lập, tránh xa dâm dục hạ liệt.
Pitā me, bhante, purāṇo brahmacārī ahosi ārācārī virato methunā gāmadhammā.
Khi mệnh chung được Thế Tôn trả lời: ‘Là bậc Dự lưu sanh với thân ở Tusitā ( Ðâu-suất)’.
So kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmī satto tusitaṁ kāyaṁ upapannoti.
Còn Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình.
Petteyyopi me, bhante, isidatto abrahmacārī ahosi sadārasantuṭṭho.
Sau khi mệnh chung được Thế Tôn trả lời: ‘Là bậc Dự lưu, sanh với thân ở Tusitā’.
Sopi kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmipatto tusitaṁ kāyaṁ upapannoti.
“Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết: Cả hai sống Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai?”
Kathaṁ kathaṁ nāmāyaṁ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyan”ti?
“Này Chị, như vậy là câu trả lời của Thế Tôn.”
“Evaṁ kho panetaṁ, bhagini, bhagavatā byākatan”ti.
3. Tôn giả Ānanda sau khi nhận đồ ăn khất thực tại nhà của nữ cư sĩ Migasālā, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.
Atha kho āyasmā ānando migasālāya upāsikāya nivesane piṇḍapātaṁ gahetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Rồi Tôn giả Ānanda, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ānando pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṁ etadavoca:
“Ở đây, bạch Thế Tôn, vào buổi sáng con đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của nữ cư sĩ Migasālā, sau khi đến, con ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Nữ cư sĩ Migasālā đi đến con, sau khi đến, đảnh lễ con rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Migasālā thưa với con:
“Idhāhaṁ, bhante, pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena migasālāya upāsikāya nivesanaṁ tenupasaṅkamiṁ; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdiṁ. Atha kho, bhante, migasālā upāsikā yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnā kho, bhante, migasālā upāsikā maṁ etadavoca:
Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Thế Tôn tuyên thuyết (nói rằng): Cả hai sống Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai.
‘kathaṁ kathaṁ nāmāyaṁ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyaṁ.
Purāṇa thân phụ con, thưa Tôn giả, sống Phạm hạnh, sống biệt lập, tránh xa dâm dục hạ liệt, khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: Là bậc Dự lưu, sanh với thân ở Tusitā.
Pitā me, bhante, purāṇo brahmacārī ahosi ārācārī virato methunā gāmadhammā. So kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmipatto tusitaṁ kāyaṁ upapannoti.
Còn Isidatta, cậu của con, thưa Tôn giả, sống không Phạm hạnh, tự bằng lòng với vợ mình, sau khi mệnh chung, được Thế Tôn trả lời: Là bậc Dự lưu, sanh với thân ở Tusitā.
Petteyyopi me, bhante, isidatto abrahmacārī ahosi sadārasantuṭṭho. Sopi kālaṅkato bhagavatā byākato sakadāgāmipatto tusitaṁ kāyaṁ upapannoti.
Như thế nào, thế nào, thưa Tôn giả Ānanda, cần phải hiểu pháp này do Phạm hạnh và sống không Phạm hạnh đều đồng đẳng về sanh thú trong tương lai?
Kathaṁ kathaṁ nāmāyaṁ, bhante ānanda, bhagavatā dhammo desito aññeyyo, yatra hi nāma brahmacārī ca abrahmacārī ca ubho samasamagatikā bhavissanti abhisamparāyan’ti?
Ðược hỏi vậy, bạch Thế Tôn, con nói với nữ cư sĩ Migasālā: ‘Này Chị, như vậy là câu trả lời của Thế Tôn’”.
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhante, migasālaṁ upāsikaṁ etadavocaṁ: ‘evaṁ kho panetaṁ, bhagini, bhagavatā byākatan’”ti.
“Nhưng này Ānanda, ai là nữ cư sĩ Migasālā lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể hiểu biết sự thắng liệt giữa các người?
“Kā cānanda, migasālā upāsikā bālā abyattā ammakā ammakapaññā, ke ca purisapuggalaparopariyañāṇe?
Này Ānanda, có sáu hạng người có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là sáu?
Chayime, ānanda, puggalā santo saṁvijjamānā lokasmiṁ. Katame cha?
4. Ở đây, này Ānanda, có người khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống chung.
Idhānanda, ekacco puggalo sorato hoti sukhasaṁvāso, abhinandanti sabrahmacārī ekattavāsena.
Vị ấy nghe Pháp không có tác động, học nhiều không có tác động, không thể nhập vào tri kiến, không chứng đắc thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṁ hoti, bāhusaccenapi akataṁ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṁ hoti, sāmāyikampi vimuttiṁ na labhati.
Người ấy sau khi thân hoại mạng chung hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi về thù thắng.
So kāyassa bhedā paraṁ maraṇā hānāya pareti no visesāya, hānagāmīyeva hoti no visesagāmī.
5. Ở đây, này Ānanda, có người khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống chung.
Idha panānanda, ekacco puggalo sorato hoti sukhasaṁvāso, abhinandanti sabrahmacārī ekattavāsena.
Vị ấy nghe Pháp có tác động, học nhiều có tác động, có thể nhập vào tri kiến, có chứng đắc thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṁ hoti, bāhusaccenapi kataṁ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṁ hoti, sāmāyikampi vimuttiṁ labhati.
Người ấy sau khi thân hoại mạng chung hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi về thối đọa.
So kāyassa bhedā paraṁ maraṇā visesāya pareti no hānāya, visesagāmīyeva hoti no hānagāmī.
Ở đây, này Ānanda, những kẻ đo lường đo lường như sau:
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti:
Những pháp ấy của vị này là như vậy, những pháp ấy của vị kia là như vậy; làm sao trong những hạng người này, có người hạ liệt, có người là thắng diệu?’
‘imassapi teva dhammā aparassapi teva dhammā, kasmā tesaṁ eko hīno eko paṇīto’ti.
Và do sự đo lường ấy, này Ānanda, đối với những người đo lường là không hạnh phúc, là đau khổ lâu dài.
Tañhi tesaṁ, ānanda, hoti dīgharattaṁ ahitāya dukkhāya.
Ở đây, này Ānanda, hạng người này, khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống chung. Vị này nghe pháp có tác động, học nhiều có tác động, thể nhập được vào tri kiến, chứng được thời giải thoát.
Tatrānanda, yvāyaṁ puggalo sorato hoti sukhasaṁvāso, abhinandanti sabrahmacārī ekattavāsena, tassa savanenapi kataṁ hoti, bāhusaccenapi kataṁ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṁ hoti, sāmāyikampi vimuttiṁ labhati.
Hạng người này, này Ānanda, so sánh với hạng người trước là tiến bộ hơn, là thắng diệu hơn. Vì cớ sao?
Ayaṁ, ānanda, puggalo amunā purimena puggalena abhikkantataro ca paṇītataro ca. Taṁ kissa hetu?
Vì dòng pháp đưa người này ra phía trước.
Imaṁ hānanda, puggalaṁ dhammasoto nibbahati,
Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt?
tadantaraṁ ko jāneyya aññatra tathāgatena.
Do vậy, này Ānanda, chớ có là người đo lường các hạng người.
Tasmātihānanda, mā puggalesu pamāṇikā ahuvattha;
Chớ có lấy sự đo lường của các hạng người.
mā puggalesu pamāṇaṁ gaṇhittha.
Này Ananada, tự đào hố cho mình là người đi lấy sự đo lường của các hạng người.
Khaññati hānanda, puggalesu pamāṇaṁ gaṇhanto.
Chỉ có ta, này Ānanda, mới có thể lấy sự đo lường của các hạng người, hay là người như Ta.
Ahaṁ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṁ gaṇheyyaṁ, yo vā panassa mādiso.
6. Ở đây, này Ānanda, có hạng người đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng các tham pháp khởi lên;
Idha panānanda, ekaccassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa lobhadhammā uppajjanti.
với người này, nghe pháp không có tác động, học nhiều không có tác động, không thể nhập tri kiến, không chứng được thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṁ hoti, bāhusaccenapi akataṁ hoti, diṭṭhiyāpi appaṭividdhaṁ hoti, sāmāyikampi vimuttiṁ na labhati.
Hạng người này sau khi thân hoại mạng chung hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi về thù thắng.
So kāyassa bhedā paraṁ maraṇā hānāya pareti no visesāya, hānagāmīyeva hoti no visesagāmī.
7. Ở đây, này Ānanda, có hạng người đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng các tham pháp khởi lên;
Idha panānanda, ekaccassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa lobhadhammā uppajjanti.
với người này, nghe pháp có tác động, học nhiều có tác động, có thể nhập tri kiến, có chứng được thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṁ hoti …pe…
Người ấy sau khi thân hoại mạng chung hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.
no hānagāmī.
Ở đây, này Ānanda, những kẻ đo lường đo lường như sau: …
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti …pe…
Chỉ có ta, này Ānanda, mới có thể lấy sự đo lường của các hạng người, hay là người như Ta.
yo vā panassa mādiso.
8. Nhưng ở đây, này Ānanda, có hạng người đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng khẩu hành khởi lên.
Idha panānanda, ekaccassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa vacīsaṅkhārā uppajjanti.
với người này, nghe pháp không có tác động, học nhiều không có tác động, không thể nhập tri kiến, không chứng được thời giải thoát.
Tassa savanenapi akataṁ hoti …pe… sāmāyikampi vimuttiṁ na labhati.
Hạng người này sau khi thân hoại mạng chung hướng về thối đọa, không hướng về thù thắng, chỉ đi đến thối đọa, không đi đến thù thắng.
So kāyassa bhedā paraṁ maraṇā hānāya pareti no visesāya, hānagāmīyeva hoti no visesagāmī.
9. Ở đây, này Ānanda, có hạng người đã chinh phục được phẫn nộ và kiêu mạn, nhưng thỉnh thoảng khẩu hành khởi lên.
Idha panānanda, ekaccassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa vacīsaṅkhārā uppajjanti.
Với người này, nghe pháp có tác động, học nhiều có tác động, có thể nhập tri kiến, chứng được thời giải thoát.
Tassa savanenapi kataṁ hoti, bāhusaccenapi kataṁ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṁ hoti, sāmāyikampi vimuttiṁ labhati.
Hạng người này sau khi thân hoại mạng chung hướng về thù thắng, không hướng về thối đọa, chỉ đi đến thù thắng, không đi đến thối đọa.
So kāyassa bhedā paraṁ maraṇā visesāya pareti no hānāya, visesagāmīyeva hoti no hānagāmī.
Ở đây, Này Ānanda, những kẻ đo lường đo lường như sau:
Tatrānanda, pamāṇikā pamiṇanti:
‘Những pháp ấy của vị này là như vậy; những pháp ấy của vị kia là như vậy. Làm sao trong những hạng người là hạ liệt, cò người là thắng diệu?’
‘imassapi teva dhammā, aparassapi teva dhammā. Kasmā tesaṁ eko hīno, eko paṇīto’ti?
Và sự đo lường ấy, này Ānanda, đối với những người đo lường là không hạnh phúc, là đau khổ lâu dài.
Tañhi tesaṁ, ānanda, hoti dīgharattaṁ ahitāya dukkhāya.
Ở đây, này Ānanda, hạng người này khéo tự chế ngự, dễ chung sống, các đồng Phạm hạnh hoan hỷ sống chung. Vị này nghe pháp có tác động, học nhiều có tác động, thể nhập được vào tri kiến, chứng được thời giải thoát.
Tatrānanda, yassa puggalassa kodhamāno adhigato hoti, samayena samayañcassa vacīsaṅkhārā uppajjanti, tassa savanenapi kataṁ hoti, bāhusaccenapi kataṁ hoti, diṭṭhiyāpi paṭividdhaṁ hoti, sāmāyikampi vimuttiṁ labhati.
Hạng người này, này Ānanda, so sánh với hạng người trước là tiến bộ hơn, là thắng diệu hơn. Vì cớ sao?
Ayaṁ, ānanda, puggalo amunā purimena puggalena abhikkantataro ca paṇītataro ca. Taṁ kissa hetu?
Vì dòng pháp đưa người này ra phía trước.
Imaṁ hānanda, puggalaṁ dhammasoto nibbahati.
Nhưng ai ngoài Như Lai có thể biết được sự khác biệt?
Tadantaraṁ ko jāneyya aññatra tathāgatena.
Do vậy, này Ānanda, chớ có làm người đo lường các hạng người.
Tasmātihānanda, mā puggalesu pamāṇikā ahuvattha;
Chớ có lấy sự đo lường của các hạng người.
mā puggalesu pamāṇaṁ gaṇhittha.
Này Ānanda, tự đào hố cho mình là người đi lấy sự đo lường của các hạng người.
Khaññati hānanda, puggalesu pamāṇaṁ gaṇhanto.
Chỉ có Ta, này Ānanda, mới có thể lấy sự đo lường của các hạng người này hay là người như Ta.
Ahaṁ vā, ānanda, puggalesu pamāṇaṁ gaṇheyyaṁ, yo vā panassa mādiso.
Và này Ānanda, ai là nữ cư sĩ Migasālā, lại ngu si, kém thông minh, với thân như bà mẹ, với trí như bà mẹ, để có thể biết sự thắng liệt giữa các người?
Kā cānanda, migasālā upāsikā bālā abyattā ammakā ammakapaññā, ke ca purisapuggalaparopariyañāṇe.
Này Ānanda, có sáu hạng người này có mặt, hiện hữu ở đời.
Ime kho, ānanda, cha puggalā santo saṁvijjamānā lokasmiṁ.
Giới như thế nào, này Ānanda, Purāṇa được thành tựu, giới ấy Isidatta chưa thành tựu. Do vậy ở đây, Purāṇa có sanh thú khác với sanh thú của Isidatta.
Yathārūpena, ānanda, sīlena purāṇo samannāgato ahosi, tathārūpena sīlena isidatto samannāgato abhavissa. Nayidha purāṇo isidattassa gatimpi aññassa.
Tuệ như thế nào, này Ānanda, Isidatta được thành tựu, tuệ ấy Purāṇa chưa thành tựu. Do vậy ở đây, Isidatta có sanh thú khác với sanh thú của Purāṇa.
Yathārūpāya ca, ānanda, paññāya isidatto samannāgato ahosi, tathārūpāya paññāya purāṇo samannāgato abhavissa. Nayidha isidatto purāṇassa gatimpi aññassa.
Như vậy, này Ānanda, cả hai người này đều có thiếu sót một chi phần.”
Iti kho, ānanda, ime puggalā ubho ekaṅgahīnā”ti.
Dutiyaṁ.