Tăng Chi Bộ 6.49
Aṅguttara Nikāya 6.49
5. Phẩm Dhammika
5. Dhammikavagga
Khema
Khemasutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại khu vườn ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sumana trú ở Sāvatthī, tại rừng Andha. Rồi Tôn giả Khema và Tôn giả Sumana đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Khema bạch Thế Tôn:
Tena kho pana samayena āyasmā ca khemo āyasmā ca sumano sāvatthiyaṁ viharanti andhavanasmiṁ. Atha kho āyasmā ca khemo āyasmā ca sumano yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā khemo bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Vị ấy không nghĩ rằng:
“Yo so, bhante, bhikkhu arahaṁ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto tassa na evaṁ hoti:
‘Có người tốt hơn ta’ hay ‘Có người giống như ta’ hay ‘Có người hạ liệt hơn ta’’”.
‘atthi me seyyoti vā atthi me sadisoti vā atthi me hīnoti vā’”ti.
Tôn giả Khema nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận.
Idamavocāyasmā khemo. Samanuñño satthā ahosi.
Rồi Tôn giả Khema nghĩ rằng: “Thế Tôn đã chấp nhận ta”. Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho āyasmā khemo “samanuñño me satthā”ti uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkāmi.
Tôn giả Sumana, khi Tôn giả Khema ra đi không bao lâu, liền bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā sumano acirapakkante āyasmante kheme bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, đã làm những việc phải làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã đoạn tận, chánh trí giải thoát. Vị ấy không nghĩ rằng:
“yo so, bhante, bhikkhu arahaṁ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṁyojano sammadaññāvimutto tassa na evaṁ hoti:
‘Có người tốt hơn ta’, hay ‘Có người giống như ta’, hay ‘Có người hạ liệt hơn ta’’”.
‘natthi me seyyoti vā natthi me sadisoti vā natthi me hīnoti vā’”ti.
Tôn giả Sumana nói như vậy. Bậc Ðạo Sư chấp nhận.
Idamavocāyasmā sumano. Samanuñño satthā ahosi.
Rồi Tôn giả Sumana nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã chấp nhận ta’. Tôn giả từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho āyasmā sumano “samanuñño me satthā”ti uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā pakkāmi.
2. Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Khema và Tôn giả Sumana ra đi không bao lâu, liền bảo các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā acirapakkantesu āyasmante ca kheme āyasmante ca sumane bhikkhū āmantesi:
“Như vậy, này các Tỷ-kheo, các thiện nam tử nói lên chánh trí.
“evaṁ kho, bhikkhave, kulaputtā aññaṁ byākaronti.
Có nói đến mục đích, nhưng không đề cập đến tự ngã.
Attho ca vutto attā ca anupanīto.
Tuy vậy, ở đây một số kẻ ngu nói lên chánh trí một cách ngạo mạn đắc chí.
Atha ca pana idhekacce moghapurisā hasamānakā maññe aññaṁ byākaronti.
Họ về sau rơi vào nguy hại.
Te pacchā vighātaṁ āpajjantīti.
Không cao, không hạ liệt,
Na ussesu na omesu,
Không so sánh ngang bằng,
Samatte nopanīyare;
Sống viên mãn Phạm Hạnh,
Đoạn tận vòng Tử Sanh,
Khīṇā jāti vusitaṁ brahmacariyaṁ,
Sống thoát khỏi trói buộc.”
Caranti saṁyojanavippamuttā”ti.
Sattamaṁ.