WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 6.54 Dhammika

Tăng Chi Bộ 6.54
Aṅguttara Nikāya 6.54

5. Phẩm Dhammika
5. Dhammikavagga

Dhammika
Dhammikasutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha (Vương Xá) tại núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu).
Ekaṁ samayaṁ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Dhammika trú tại chỗ sanh trưởng của mình và có tất cả bảy trú xứ tại chỗ sanh trưởng ấy.
Tena kho pana samayena āyasmā dhammiko jātibhūmiyaṁ āvāsiko hoti sabbaso jātibhūmiyaṁ sattasu āvāsesu.

Tại đấy, Tôn giả Dhammika đối với các khách Tỷ-kheo, mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, khiến họ tức giận với những lời nói.
Tatra sudaṁ āyasmā dhammiko āgantuke bhikkhū akkosati paribhāsati vihiṁsati vitudati roseti vācāya.

Và các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, khiến họ tức giận, liền bỏ đi, không có an trú và từ bỏ trú xứ.
Te ca āgantukā bhikkhū āyasmatā dhammikena akkosiyamānā paribhāsiyamānā vihesiyamānā vitudiyamānā rosiyamānā vācāya pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng, suy nghĩ như sau:
Atha kho jātibhūmakānaṁ upāsakānaṁ etadahosi:

“Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo Tăng các vật dụng cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
“mayaṁ kho bhikkhusaṅghaṁ paccupaṭṭhitā cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārena.

Nhưng các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú và từ bỏ trú xứ.
Atha ca pana āgantukā bhikkhū pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Do nhân gì, do duyên gì, các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ?”
Ko nu kho hetu ko paccayo yena āgantukā bhikkhū pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsan”ti?

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ:
Atha kho jātibhūmakānaṁ upāsakānaṁ etadahosi:

“Có Tôn giả Dhammika này mắng nhiếc các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại, châm biếm, làm họ tức giận với những lời nói.
“ayaṁ kho āyasmā dhammiko āgantuke bhikkhū akkosati paribhāsati vihiṁsati vitudati roseti vācāya.

Các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm cho tức giận với những lời nói, nên bỏ đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ.
Te ca āgantukā bhikkhū āyasmatā dhammikena akkosiyamānā paribhāsiyamānā vihesiyamānā vitudiyamānā rosiyamānā vācāya pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Vậy chúng ta hãy mời Tôn giả Dhammika đi chỗ khác.”
Yannūna mayaṁ āyasmantaṁ dhammikaṁ pabbājeyyāmā”ti.

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng đi đến Tôn giả Dhammika; sau khi đến, thưa với Tôn giả Dhammika:
Atha kho jātibhūmakā upāsakā yena āyasmā dhammiko tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ dhammikaṁ etadavocuṁ:

“Thưa Tôn giả, Tôn giả Dhammika hãy từ bỏ trú xứ này.
“pakkamatu, bhante, āyasmā dhammiko imamhā āvāsā;

Tôn giả trú ở đây đã vừa đủ rồi.”
alaṁ te idha vāsenā”ti.

2. Rồi Tôn giả Dhammika từ bỏ trú xứ ấy, đi đến một trú xứ khác.
Atha kho āyasmā dhammiko tamhā āvāsā aññaṁ āvāsaṁ agamāsi.

Tại đấy, Tôn giả Dhammika mắng nhiếc các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại, châm biếm, làm cho tức giận với các lời nói.
Tatrapi sudaṁ āyasmā dhammiko āgantuke bhikkhū akkosati paribhāsati vihiṁsati vitudati roseti vācāya.

Và các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm cho tức giận với các lời nói, liền bỏ đi, không an trú, và từ bỏ trú xứ.
Te ca āgantukā bhikkhū āyasmatā dhammikena akkosiyamānā paribhāsiyamānā vihesiyamānā vitudiyamānā rosiyamānā vācāya pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ như sau:
Atha kho jātibhūmakānaṁ upāsakānaṁ etadahosi:

Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết, như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
“mayaṁ kho bhikkhusaṅghaṁ paccupaṭṭhitā cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārena.

Nhưng các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không an trú, từ bỏ trú xứ.
Atha ca pana āgantukā bhikkhū pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Do nhân gì, do duyên gì, các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ?
Ko nu kho hetu ko paccayo yena āgantukā bhikkhū pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsan”ti?

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ:
Atha kho jātibhūmakānaṁ upāsakānaṁ etadahosi:

Có Tôn giả Dhammika này mắng nhiếc các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại, châm biếm, làm họ tức giận với những lời nói.
“ayaṁ kho āyasmā dhammiko āgantuke bhikkhū akkosati paribhāsati vihiṁsati vitudati roseti vācāya.

Các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm họ tức giận, nên bỏ đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ.
Te ca āgantukā bhikkhū āyasmatā dhammikena akkosiyamānā paribhāsiyamānā vihesiyamānā vitudiyamānā rosiyamānā vācāya pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Vậy chúng ta hãy mời Tôn giả Dhammika đi đến chỗ khác.
Yannūna mayaṁ āyasmantaṁ dhammikaṁ pabbājeyyāmā”ti.

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng đi đến Tôn giả Dhammika; sau khi đến, thưa với Tôn giả Dhammika:
Atha kho jātibhūmakā upāsakā yenāyasmā dhammiko tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ dhammikaṁ etadavocuṁ:

“Thưa Tôn giả, Tôn giả Dhammika hãy từ bỏ trú xứ này.
“pakkamatu, bhante, āyasmā dhammiko imamhāpi āvāsā;

Tôn giả trú ở đây đã vừa đủ rồi.”
alaṁ te idha vāsenā”ti.

3. Rồi Tôn giả Dhammika từ bỏ trú xứ ấy, đi đến một xứ khác.
Atha kho āyasmā dhammiko tamhāpi āvāsā aññaṁ āvāsaṁ agamāsi.

Tại đấy, Tôn giả Dhammika mắng nhiếc các khách Tỷ-kheo, quở trách, não hại, châm biếm, làm tức giận với lời nói.
Tatrapi sudaṁ āyasmā dhammiko āgantuke bhikkhū akkosati paribhāsati vihiṁsati vitudati roseti vācāya.

Và các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm cho tức giận với lời nói, liền bỏ đi, không có an trú và từ bỏ trú xứ.
Te ca āgantukā bhikkhū āyasmatā dhammikena akkosiyamānā paribhāsiyamānā vihesiyamānā vitudiyamānā rosiyamānā vācāya pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ như sau:
Atha kho jātibhūmakānaṁ upāsakānaṁ etadahosi:

Chúng ta đã cung cấp cho chúng Tỷ-kheo các vật dụng cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
“mayaṁ kho bhikkhusaṅghaṁ paccupaṭṭhitā cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārena.

Nhưng các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không an trú, từ bỏ trú xứ.
Atha ca pana āgantukā bhikkhū pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsaṁ.

Do nhân gì, do duyên gì, các khách Tỷ-kheo lại bỏ đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ?
Ko nu kho hetu ko paccayo yena āgantukā bhikkhū pakkamanti, na saṇṭhanti, riñcanti āvāsan”ti?

Rồi các cư sĩ tại chỗ sanh trưởng suy nghĩ: “Có Tôn giả Dhammika này mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm họ tức giận với những lời nói. Các khách Tỷ-kheo ấy bị Tôn giả Dhammika mắng nhiếc, quở trách, não hại, châm biếm, làm tức giận với những lời nói, nên bỏ đi, không có an trú, từ bỏ trú xứ.
Atha kho jātibhūmakānaṁ upāsakānaṁ etadahosi: “ayaṁ kho āyasmā dhammiko āgantuke bhikkhū akkosati …pe….

“Thưa Tôn giả, Tôn giả Dhammika hãy rời bỏ hoàn toàn bảy trú xứ tại chỗ đất sanh trưởng.”
Yannūna mayaṁ āyasmantaṁ dhammikaṁ pabbājeyyāma sabbaso jātibhūmiyaṁ sattahi āvāsehī”ti.

Rồi các cư sĩ tại chỗ đất sanh trưởng đi đến Tôn giả Dhammika; sau khi đến, nói với Tôn giả Dhammika:
Atha kho jātibhūmakā upāsakā yenāyasmā dhammiko tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ dhammikaṁ etadavocuṁ:

“Vậy chúng ta hãy mời Tôn giả Dhammika rời bỏ hoàn toàn bảy trú xứ tại chỗ đất sanh trưởng”.
“pakkamatu, bhante, āyasmā dhammiko sabbaso jātibhūmiyaṁ sattahi āvāsehī”ti.

4. Rồi Tôn giả Dhammika suy nghĩ:
Atha kho āyasmato dhammikassa etadahosi:

“Ta đã bị các cư sĩ tại chỗ đất sanh trưởng mời rời bỏ hoàn toàn bảy trú xứ tại chỗ đất sanh trưởng.
“pabbājito khomhi jātibhūmakehi upāsakehi sabbaso jātibhūmiyaṁ sattahi āvāsehi.

Nay ta sẽ đi tại chỗ nào?”
Kahaṁ nu kho dāni gacchāmī”ti?

Rồi Tôn giả Dhammika suy nghĩ:
Atha kho āyasmato dhammikassa etadahosi:

“Ta hãy đi đến Thế Tôn,”
“yannūnāhaṁ yena bhagavā tenupasaṅkameyyan”ti.

Then Venerable Dhammika took his bowl and robe and set out for Rājagaha.
Atha kho āyasmā dhammiko pattacīvaramādāya yena rājagahaṁ tena pakkāmi.

Rồi Tôn giả Dhammika cầm y bát, ra đi, hướng đến Rājagaha (Vương Xá), dần dần đi đến núi Gijjhakūṭa (Linh Thứu) tại Rājagaha; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Dhammika đang ngồi xuống một bên:
Anupubbena yena rājagahaṁ gijjhakūṭo pabbato yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinnaṁ kho āyasmantaṁ dhammikaṁ bhagavā etadavoca:

“Này Bà-la-môn Dhammika, Ông đi từ đâu đến?”
“handa kuto nu tvaṁ, brāhmaṇa dhammika, āgacchasī”ti?

“Bạch Thế Tôn, con bị các cư sĩ tại chỗ đất sanh trưởng mời rời bỏ hoàn toàn bảy trú xứ tại chỗ đất sanh trưởng!”
“Pabbājito ahaṁ, bhante, jātibhūmakehi upāsakehi sabbaso jātibhūmiyaṁ sattahi āvāsehī”ti.

“Thôi vừa rồi, này Bà-la-môn Dhammika! Sự việc này, đối với Ông có hề hấn gì! Dầu họ có mời Ông từ bỏ tại chỗ nào, chỗ nào, sau khi đã từ bỏ chỗ ấy, chỗ ấy, Ông đã đi đến gần Ta!
“Alaṁ, brāhmaṇa dhammika, kiṁ te iminā, yaṁ taṁ tato tato pabbājenti, so tvaṁ tato tato pabbājito mameva santike āgacchasi.

5. Trong quá khứ, này Bà-la-môn Dhammika, các nhà buôn đường biển đem theo một con chim để tìm bờ, khi họ đi tàu ra biển.
Bhūtapubbaṁ, brāhmaṇa dhammika, sāmuddikā vāṇijā tīradassiṁ sakuṇaṁ gahetvā nāvāya samuddaṁ ajjhogāhanti.

Khi chiếc tàu ra xa, không thấy bờ, họ thả con chim đi tìm bờ.
Te atīradakkhiṇiyā nāvāya tīradassiṁ sakuṇaṁ muñcanti.

Con chim bay về hướng Ðông, bay về hướng Tây, bay về hướng Bắc, bay về hướng Nam, bay về hướng Trên, bay về hướng Gió.
So gacchateva puratthimaṁ disaṁ, gacchati pacchimaṁ disaṁ, gacchati uttaraṁ disaṁ, gacchati dakkhiṇaṁ disaṁ, gacchati uddhaṁ, gacchati anudisaṁ.

Nếu nó thấy bờ xung quanh, nó liền bay luôn.
Sace so samantā tīraṁ passati, tathāgatakova hoti.

Nếu nó không thấy bờ xung quanh, nó bay trở lui về tàu.
Sace pana so samantā tīraṁ na passati tameva nāvaṁ paccāgacchati.

Cũng vậy, này Bà-la-môn Dhammika, dầu họ có mời Ông từ bỏ tại chỗ nào, chỗ nào, sau khi đã từ bỏ chỗ ấy, chỗ ấy, Ông đã đi đến gần Ta.
Evamevaṁ kho, brāhmaṇa dhammika, yaṁ taṁ tato tato pabbājenti so tvaṁ tato tato pabbājito mameva santike āgacchasi.

6. Thuở xưa, này Bà-la-môn Dhammika, vua Koravya có một cây bàng chúa tên là Suppatittha, cây này có năm cành, có bóng mát dịu, rất là khả ý.
Bhūtapubbaṁ, brāhmaṇa dhammika, rañño korabyassa suppatiṭṭho nāma nigrodharājā ahosi pañcasākho sītacchāyo manoramo.

Này Bà-la-môn Dhammika, cây bàng chúa Suppatittha tỏa rộng ra đến mười hai do tuần, các rễ mọc lan rộng đến năm do tuần.
Suppatiṭṭhassa kho pana, brāhmaṇa dhammika, nigrodharājassa dvādasayojanāni abhiniveso ahosi, pañca yojanāni mūlasantānakānaṁ.

Này Bà-la-môn Dhammika, cây bàng chúa Suppatittha có những trái cây to lớn;
Suppatiṭṭhassa kho pana, brāhmaṇa dhammika, nigrodharājassa tāva mahantāni phalāni ahesuṁ;

lớn như những cái nồi cơm;
seyyathāpi nāma āḷhakathālikā.

những trái cây ngọt lịm như vậy;
Evamassa sādūni phalāni ahesuṁ;

trong sáng và ngọt như mật ong.
seyyathāpi nāma khuddaṁ madhuṁ anelakaṁ.

Này Bà-la-môn Dhammika, vua với các cung nữ hưởng thụ một cành cây của cây bàng chúa Suppatittha; quân đội hưởng thụ một cành; các Sa-môn, Bà-la-môn hưởng thụ một cành; các loài thú, loài chim hưởng thụ một cành.
Suppatiṭṭhassa kho pana, brāhmaṇa dhammika, nigrodharājassa ekaṁ khandhaṁ rājā paribhuñjati saddhiṁ itthāgārena, ekaṁ khandhaṁ balakāyo paribhuñjati, ekaṁ khandhaṁ negamajānapadā paribhuñjanti, ekaṁ khandhaṁ samaṇabrāhmaṇā paribhuñjanti, ekaṁ khandhaṁ migā paribhuñjanti.

Này Bà-la-môn Dhammika, không có ai phòng hộ các trái của cây bàng chúa Suppatittha, và không có ai hại nhau vì trái cây.
Suppatiṭṭhassa kho pana, brāhmaṇa dhammika, nigrodharājassa na koci phalāni rakkhati, na ca sudaṁ aññamaññassa phalāni hiṁsanti.

Rồi này Bà-la-môn Dhammika, một người sau khi đã ăn hết cho đến thỏa thích những trái của cây bàng chúa Suppatittha, liền bẻ gãy một cành rồi bỏ đi.
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, aññataro puriso suppatiṭṭhassa nigrodharājassa yāvadatthaṁ phalāni bhakkhitvā sākhaṁ bhañjitvā pakkāmi.

Rồi này Bà-la-môn Dhammika, vị Thiên trú ở cây bàng chúa Suppatittha suy nghĩ như sau:
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, suppatiṭṭhe nigrodharāje adhivatthāya devatāya etadahosi:

‘Thật là vi diệu, thưa Tôn giả! Thật là hy hữu, thưa Tôn giả!
‘acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho.

Con người lại ác cho đến như vậy! Sau khi ăn cho đến thỏa thích các trái của cây bàng chúa Suppatittha, lại bẻ một cành rồi bỏ đi! Vậy cây bàng chúa Suppatittha hãy đừng sanh trái nữa trong tương lai!’
Yāva pāpo manusso, yatra hi nāma suppatiṭṭhassa nigrodharājassa yāvadatthaṁ phalāni bhakkhitvā sākhaṁ bhañjitvā pakkamissati, yannūna suppatiṭṭho nigrodharājā āyatiṁ phalaṁ na dadeyyā’ti.

Rồi này Bà-la-môn Dhammika, cây bàng chúa Suppatittha không sanh trái nữa trong tương lai.
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, suppatiṭṭho nigrodharājā āyatiṁ phalaṁ na adāsi.

Rồi này Bà-la-môn Dhammika, vua Koravya đi đến Thiên chủ Sakka; sau khi đến, thưa với Thiên chủ Sakka:
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, rājā korabyo yena sakko devānamindo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā sakkaṁ devānamindaṁ etadavoca:

‘Tôn giả có biết không? Cây bàng chúa Suppatittha không sanh trái nữa!’
‘yagghe, mārisa, jāneyyāsi suppatiṭṭho nigrodharājā phalaṁ na detī’ti.

Rồi này Bà-la-môn Dhammika, Thiên chủ Sakka thực hiện thần thông, khiến cho mưa to gió lớn khởi lên, làm cây bàng chúa Suppatittha ngã xuống và bật gốc rễ.
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, sakko devānamindo tathārūpaṁ iddhābhisaṅkhāraṁ abhisaṅkhāsi, yathā bhusā vātavuṭṭhi āgantvā suppatiṭṭhaṁ nigrodharājaṁ pavattesi ummūlamakāsi.

Này Bà-la-môn Dhammika, vị Thiên trú ở cây bàng chúa Suppatittha khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc lóc, đứng một bên.
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, suppatiṭṭhe nigrodharāje adhivatthā devatā dukkhī dummanā assumukhī rudamānā ekamantaṁ aṭṭhāsi.

Này Bà-la-môn Dhammika, rồi Thiên chủ Suppatittha đi đến vị Thiên trú ở cây bàng chúa Suppatittha, sau khi đến, nói với vị Thiên trú ở cây bàng chúa Suppatittha như sau:
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, sakko devānamindo yena suppatiṭṭhe nigrodharāje adhivatthā devatā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā suppatiṭṭhe nigrodharāje adhivatthaṁ devataṁ etadavoca:

‘Vì sao, này vị Thiên đứng một bên kia, Ông lại khổ đau, sầu muộn, nước mắt đầy mặt, khóc lóc?’
‘kiṁ nu tvaṁ, devate, dukkhī dummanā assumukhī rudamānā ekamantaṁ ṭhitā’ti?

‘Thưa Tôn giả, có cơn mưa to gió lớn khởi lên, và làm cho chỗ trú xứ của con bị ngã xuống và bật gốc rễ lên.’
‘Tathā hi pana me, mārisa, bhusā vātavuṭṭhi āgantvā bhavanaṁ pavattesi ummūlamakāsī’ti.

‘Này vị Thiên kia, có phải Ông đang gìn giữ cây pháp, nhưng cơn mưa to lớn ấy khởi lên, làm trú xứ của Ông bị ngã xuống và bật gốc rễ lên?’
‘Api nu tvaṁ, devate, rukkhadhamme ṭhitāya bhusā vātavuṭṭhi āgantvā bhavanaṁ pavattesi ummūlamakāsī’ti?

‘Làm thế nào, thưa Tôn giả, một cây… được gìn giữ như một cây pháp?’
‘Kathaṁ pana, mārisa, rukkho rukkhadhamme ṭhito hotī’ti?

‘Ở đây, này vị Thiên kia, những người cần rễ đến lấy rễ cây đi, những người cần vỏ đến lấy vỏ cây đi. Những người cần lá đến lấy lá đi. Những người cần bông đến lấy bông đi. Những người cần trái đến lấy trái đi.
‘Idha, devate, rukkhassa mūlaṁ mūlatthikā haranti, tacaṁ tacatthikā haranti, pattaṁ pattatthikā haranti, pupphaṁ pupphatthikā haranti, phalaṁ phalatthikā haranti.

Như vậy, không có gì để khiến cho một vị Thiên phải không hoan hỷ, không vui vẻ.
Na ca tena devatāya anattamanatā vā anabhinandi vā karaṇīyā.

Như vậy, là một cây được gìn giữ như một cây pháp.’
Evaṁ kho, devate, rukkho rukkhadhamme ṭhito hotī’ti.

‘Thưa Tôn giả, con không gìn giữ một cây pháp, khi cơn mưa to lớn ấy khởi lên, làm chỗ trú xứ của con ngã xuống và bật gốc rễ lên!’
‘Aṭṭhitāyeva kho me, mārisa, rukkhadhamme bhusā vātavuṭṭhi āgantvā bhavanaṁ pavattesi ummūlamakāsī’ti.

‘Này vị Thiên kia, nếu Ông gìn giữ cây pháp, thời trú xứ của Ông sẽ trở lại như xưa.’
‘Sace kho tvaṁ, devate, rukkhadhamme tiṭṭheyyāsi, siyā te bhavanaṁ yathāpure’ti.

‘Thưa Tôn giã, con sẽ gìn giữ cây pháp, mong rằng trú xứ cuả con trở lại như xưa.’
‘Ṭhassāmahaṁ, mārisa, rukkhadhamme, hotu me bhavanaṁ yathāpure’ti.

Rồi Thiên chủ Sakka thực hiện thần thông khiến cho mưa to gió lớn đến dựng đứng lại cây bàng chúa và chữa lành những rễ cây.
Atha kho, brāhmaṇa dhammika, sakko devānamindo tathārūpaṁ iddhābhisaṅkhāraṁ abhisaṅkhāsi, yathā bhusā vātavuṭṭhi āgantvā suppatiṭṭhaṁ nigrodharājaṁ ussāpesi, sacchavīni mūlāni ahesuṁ.

Cũng vậy, này Bà-la-môn Dhammika, Ông có gìn giữ Sa-môn pháp, khi các người cư sĩ tại chỗ sanh trưởng mời Ông đi khỏi bảy trú xứ tại chỗ sanh trưởng không?”
Evamevaṁ kho, brāhmaṇa dhammika, api nu taṁ samaṇadhamme ṭhitaṁ jātibhūmakā upāsakā pabbājesuṁ sabbaso jātibhūmiyaṁ sattahi āvāsehī”ti?

“Như thế nào, thưa Thế Tôn, là một Sa-môn gìn giữ Sa-môn pháp?”
“Kathaṁ pana, bhante, samaṇo samaṇadhamme ṭhito hotī”ti?

“Như thế này, này Bà-la-môn Dhammika, ở đây, một Sa-môn không có mắng nhiếc lại người đã mắng nhiếc mình, không có tức giận người đã tức giận mình, không có quở trách người đã quở trách mình.
“Idha, brāhmaṇa dhammika, samaṇo akkosantaṁ na paccakkosati, rosantaṁ na paṭirosati, bhaṇḍantaṁ na paṭibhaṇḍati.

Như vậy, này Bà-la-môn Dhammika, là vị Sa-môn gìn giữ Sa-môn pháp.”
Evaṁ kho, brāhmaṇa dhammika, samaṇo samaṇadhamme ṭhito hotī”ti.

“Thưa Tôn giả, con không gìn giữ Sa-môn pháp khi những người cư sĩ ở tại chỗ sanh trưởng mời con đi khỏi hoàn toàn bảy trú xứ trong chỗ được sanh trưởng.”
“Aṭṭhitaṁyeva maṁ, bhante, samaṇadhamme jātibhūmakā upāsakā pabbājesuṁ sabbaso jātibhūmiyaṁ sattahi āvāsehī”ti.

“7. Thuở xưa, này Bà-la-môn Dhammika, có một ngoại đạo sư tên là Sunettto (Diệu Nhãn) đã viễn ly các dục.
“Bhūtapubbaṁ, brāhmaṇa dhammika, sunetto nāma satthā ahosi titthakaro kāmesu vītarāgo.

Này Bà-la-môn Dhammika, ngoại đạo sư Sunetto có hàng trăm đệ tử.
Sunettassa kho pana, brāhmaṇa dhammika, satthuno anekāni sāvakasatāni ahesuṁ.

Ngoại đạo sư Sunetto thuyết pháp về cộng trú tại Phạm thiên giới cho các người đệ tử.
Sunetto satthā sāvakānaṁ brahmalokasahabyatāya dhammaṁ desesi.

Những ai nghe ngoại đạo sư Sunetto thuyết giảng về cộng trú tại Phạm thiên giới, này Bà-la-môn Dhammika, tâm không được hoan hỷ, các người ấy sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Ye kho pana, brāhmaṇa dhammika, sunettassa satthuno brahmalokasahabyatāya dhammaṁ desentassa cittāni na pasādesuṁ te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjiṁsu.

Còn những ai, này Bà-la-môn Dhammika, nghe ngoại đạo sư Sunetto thuyết giảng về cọng trú tại Phạm thiên giới, tâm được hoan hỷ, các người ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Ye kho pana, brāhmaṇa dhammika, sunettassa satthuno brahmalokasahabyatāya dhammaṁ desentassa cittāni pasādesuṁ te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjiṁsu.

Thuở xưa, này Bà-la-môn Dhammika, có ngoại đạo sư tên là Mūgapakkha …
Bhūtapubbaṁ, brāhmaṇa dhammika, mūgapakkho nāma satthā ahosi …pe…

có ngoại đạo sư tên là Aranemi …
Aranemi nāma satthā ahosi …

có ngoại đạo sư tên là Kuddālaka …
… Kuddālako nāma satthā ahosi …

có ngoại đạo sư tên là Hatthipāla …
… Hatthipālo nāma satthā ahosi …

có ngoại đạo sư tên là Jotipāla đã viễn ly các dục.
… Jotipālo nāma satthā ahosi titthakaro kāmesu vītarāgo.

Này Bà-la-môn Dhammika, ngoại đạo sư Jotipāla có hàng trăm đệ tử.
Jotipālassa kho pana, brāhmaṇa dhammika, satthuno anekāni sāvakasatāni ahesuṁ.

Ngoại đạo sư Jotipāla thuyết pháp về cộng trú tại Phạm thiên giới cho các người đệ tử
Jotipālo satthā sāvakānaṁ brahmalokasahabyatāya dhammaṁ desesi.

Những ai nghe ngoại đạo sư Jotipāla thuyết giảng về cộng trú tại Phạm thiên giới, này Bà-la-môn Dhammika, tâm không được hoan hỷ, các người ấy sau khi thân hoại mạng chung bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Ye kho pana, brāhmaṇa dhammika, jotipālassa satthuno brahmalokasahabyatāya dhammaṁ desentassa cittāni na pasādesuṁ te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjiṁsu.

Còn những ai, này Bà-la-môn Dhammika, nghe ngoại đạo sư Jotipāla thuyết giảng về cọng trú tại Phạm thiên giới, tâm được hoan hỷ, các người ấy sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Ye kho pana, brāhmaṇa dhammika, jotipālassa satthuno brahmalokasahabyatāya dhammaṁ desentassa cittāni pasādesuṁ te kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjiṁsu.

Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn Dhammika?
Taṁ kiṁ maññasi, brāhmaṇa dhammika,

Đối với sáu ngoại đạo sư này đã viễn ly các dục, hay đối với chúng đệ tử hàng trăm hội chúng của những vị ấy, ai với tâm uế nhiễm, mắng nhiếc, quở trách, như vậy có sanh khởi ra nhiều vô phước không?”
yo ime cha satthāre titthakare kāmesu vītarāge, anekasataparivāre sasāvakasaṅghe paduṭṭhacitto akkoseyya paribhāseyya, bahuṁ so apuññaṁ pasaveyyā”ti?

“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.

“8. Thật vậy, này Bà-la-môn Dhammika, đối với sáu ngoại đạo sư này đã viễn ly các dục, hay đối với chúng đệ tử hàng trăm hội chúng của những vị ấy, ai với tâm uế nhiễm, mắng nhiếc, quở trách, có sanh khởi ra nhiều vô phước.
“Yo kho, brāhmaṇa dhammika, ime cha satthāre titthakare kāmesu vītarāge anekasataparivāre sasāvakasaṅghe paduṭṭhacitto akkoseyya paribhāseyya, bahuṁ so apuññaṁ pasaveyya.

Còn ai, đối với vị đầy đủ chánh kiến, với tâm uế nhiễm, mắng nhiếc, quở trách, như vậy sanh khởi ra nhiều vô phước hơn nữa.
Yo ekaṁ diṭṭhisampannaṁ puggalaṁ paduṭṭhacitto akkosati paribhāsati, ayaṁ tato bahutaraṁ apuññaṁ pasavati.

Vì cớ sao?
Taṁ kissa hetu?

Ta tuyên bố rằng, này Bà-la-môn Dhammika, sự tổn hại đối với các ngoại đạo sư như vậy không bằng sự tổn hại nếu đối xử với các vị đồng Phạm hạnh.
Nāhaṁ, brāhmaṇa dhammika, ito bahiddhā evarūpiṁ khantiṁ vadāmi, yathāmaṁ sabrahmacārīsu.

Do vậy, này các Bà-la-môn Dhammika, cần phải học tập như sau:
Tasmātiha, brāhmaṇa dhammika, evaṁ sikkhitabbaṁ:

‘9. Chúng tôi sẽ không có tâm uế nhiễm đối với vị đồng Phạm hạnh.’
‘na no samasabrahmacārīsu cittāni paduṭṭhāni bhavissantī’ti.

Này Bà-la-môn Dhammika, các Ông cần phải học tập như vậy.
Evañhi te, brāhmaṇa dhammika, sikkhitabbanti.

Bà-la-môn Sunetta,
Mūgapakkha và Aranemi,
Sunetto mūgapakkho ca,
aranemi ca brāhmaṇo;
Đệ tử là Hatthipāla,
Và đạo sư Kuddālaka.
Kuddālako ahu satthā,
hatthipālo ca māṇavo.

Jotipāla và Govinda
Jotipālo ca govindo,
Là tư tế bảy Vua,
ahu sattapurohito;
Sáu đạo sư danh tiếng,
Ahiṁsakā atītaṁse,
Vô hại trong quá khứ,
cha satthāro yasassino.

Thoát hôi hám, từ bi,
Nirāmagandhā karuṇedhimuttā,
Đoạn tận dục trói buộc,
Kāmasaṁyojanātigā;
Thoát ly dục tham ái,
Kāmarāgaṁ virājetvā,
Sanh lên Phạm Thiên giới.
Brahmalokūpagā ahuṁ.

Với hàng trăm đệ tử,
Ahesuṁ sāvakā tesaṁ,
Anekāni satānipi;
Thoát hôi hám, từ bi,
Nirāmagandhā karuṇedhimuttā,
Đoạn tận dục trói buộc.
Kāmasaṁyojanātigā;
Thoát ly dục tham ái,
Kāmarāgaṁ virājetvā,
Sanh lên Phạm Thiên giới.
Brahmalokūpagā ahuṁ.

Vị đạo sĩ ngoại đạo,
Yete isī bāhirake,
Ly tham, tâm thiền định,
vītarāge samāhite;
Với mục đích xấu xa,
Paduṭṭhamanasaṅkappo,
Ai phỉ báng, bôi nhọ,
yo naro paribhāsati;
Người làm điều như vậy,
Là tạo nhiều vô phước.
Bahuñca so pasavati,
apuññaṁ tādiso naro.

Những ai có Chánh Kiến,
Yo cekaṁ diṭṭhisampannaṁ,
Tỳ khưu đệ tử Phật,
Bhikkhuṁ buddhassa sāvakaṁ;
Với mục đích xấu xa,
Paduṭṭhamanasaṅkappo,
Ai phỉ báng, bôi nhọ,
Yo naro paribhāsati;
Người làm điều như vậy,
Tạo vô phước nhiều hơn.
Ayaṁ tato bahutaraṁ,
Apuññaṁ pasave naro.

Không xúc phạm bậc đáng kính,
Na sādhurūpaṁ āsīde,
Vị từ bỏ kiến xứ,
diṭṭhiṭṭhānappahāyinaṁ;
Vị ấy là tối thượng,
Sattamo puggalo eso,
Trong hội chúng Thánh Nhân.
ariyasaṅghassa vuccati.

Ai chưa ly các dục,
Avītarāgo kāmesu,
Năm căn còn mềm yếu:
yassa pañcindriyā mudū;
Tín, niệm và tinh tấn,
Saddhā sati ca vīriyaṁ,
Thiền chỉ và thiền quán.
samatho ca vipassanā.

Xúc phạm tỷ kheo ấy,
Tādisaṁ bhikkhumāsajja,
Là tự hại mình trước.
pubbeva upahaññati;
Tự mình hại lấy mình,
Attānaṁ upahantvāna,
Sau hại đến người khác.
pacchā aññaṁ vihiṁsati.

Ai tự bảo vệ mình,
Yo ca rakkhati attānaṁ,
Cũng bảo vệ người khác.
rakkhito tassa bāhiro;
Do vậy, bảo vệ mình.
Tasmā rakkheyya attānaṁ,
Bậc trí không tổn hại.”
akkhato paṇḍito sadā”ti.

Dvādasamaṁ.

DHAMMIKAVAGGO PAÑCAMO.

Tassuddānaṁ

Nāgamigasālā iṇaṁ,
Cundaṁ dve sandiṭṭhikā duve;
Khemaindriya ānanda,
Khattiyā appamādena dhammikoti.

PAṬHAMO PAṆṆĀSAKO SAMATTO.