Tăng Chi Bộ 6.60
Aṅguttara Nikāya 6.60
6. Đại Phẩm
6. Mahāvagga
Hatthisāriputta
Hatthisāriputtasutta
1. Như vầy tôi nghe:
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời, Thế Tôn trú ở Bārāṇasi tại Isipatana, vườn Lộc Uyển.
ekaṁ samayaṁ bhagavā bārāṇasiyaṁ viharati isipatane migadāye.
Lúc bấy giờ, nhiều vị Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà hình tròn và thuyết về Thắng pháp luận.
Tena kho pana samayena sambahulā therā bhikkhū pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkantā maṇḍalamāḷe sannisinnā sannipatitā abhidhammakathaṁ kathenti.
Tại đấy, Tôn giả Citta Hatthisāriputta, trong khi các Tỷ-kheo trưởng lão đang thuyết về Thắng pháp luận, lại nói xen vào chặng giữa.
Tatra sudaṁ āyasmā citto hatthisāriputto therānaṁ bhikkhūnaṁ abhidhammakathaṁ kathentānaṁ antarantarā kathaṁ opāteti.
Rồi Tôn giả Mahākoṭṭhita nói với Tôn giả Citta Hatthisāriputta:
Atha kho āyasmā mahākoṭṭhiko āyasmantaṁ cittaṁ hatthisāriputtaṁ etadavoca:
“Tôn giả Citta Hatthisāriputta, trong khi các Tỷ-kheo trưởng lão đang thuyết về Thắng pháp luận, chớ có nói xen vào chặng giữa! Tôn giả Citta hãy chờ cho đến cuối câu chuyện.”
“māyasmā citto hatthisāriputto therānaṁ bhikkhūnaṁ abhidhammakathaṁ kathentānaṁ antarantarā kathaṁ opātesi, yāva kathāpariyosānaṁ āyasmā citto āgametū”ti.
Ðược nghe nói vậy, các Tỷ-kheo bạn bè của Tôn giả Citta Hatthisāriputta nói với Tôn giả Mahākoṭṭhita:
Evaṁ vutte, āyasmato cittassa hatthisāriputtassa sahāyakā bhikkhū āyasmantaṁ mahākoṭṭhikaṁ etadavocuṁ:
“Tôn giả Kotthita chớ có bất mãn Tôn giả Citta Hatthisāriputta! Tôn giả Citta Hatthisāriputta là bậc Hiền trí. Tôn giả Citta Hatthisāriputta có thể nói chuyện về Thắng pháp luận với các Tỷ-kheo trưởng lão.”
“māyasmā mahākoṭṭhiko āyasmantaṁ cittaṁ hatthisāriputtaṁ apasādesi, paṇḍito āyasmā citto hatthisāriputto. Pahoti cāyasmā citto hatthisāriputto therānaṁ bhikkhūnaṁ abhidhammakathaṁ kathetun”ti.
“Và thật rất khó lòng cho các Hiền giả để biết được tâm tư của người khác.
“Dujjānaṁ kho etaṁ, āvuso, parassa cetopariyāyaṁ ajānantehi.
2. Ở đây, thưa các Hiền giả, có hạng người, khi còn sống gần vị Bổn sư hay sống gần một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, trong khi ấy, là người nhu hòa nhất trong những người nhu hòa, là người khiêm tốn nhất trong những người khiêm tốn, là người an tịnh nhất trong những người an tịnh.
Idhāvuso, ekacco puggalo tāvadeva soratasorato hoti, nivātanivāto hoti, upasantupasanto hoti, yāva satthāraṁ upanissāya viharati aññataraṁ vā garuṭṭhāniyaṁ sabrahmacāriṁ.
Khi người ấy rời khỏi bậc Ðạo Sư, rời khỏi các vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, vị ấy sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, các đại thần của vua, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo.
Yato ca kho so vapakassateva satthārā, vapakassati garuṭṭhāniyehi sabrahmacārīhi, so saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi bhikkhunīhi upāsakehi upāsikāhi raññā rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi.
Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, tham ái tấn công tâm vị ấy.
Tassa saṁsaṭṭhassa vissatthassa pākatassa bhassamanuyuttassa viharato rāgo cittaṁ anuddhaṁseti.
Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục.
So rāgānuddhaṁsitena cittena sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
Ví như, này các Hiền giả, một con bò ăn lúa, bị dây cột lại, hay bị nhốt trong chuồng.
Seyyathāpi, āvuso, goṇo kiṭṭhādo dāmena vā baddho vaje vā oruddho.
Này Hiền giả, nếu có ai nói như sau: “Con bò ăn lúa này sẽ không bao giờ đi xuống ruộng lúa nữa”, nói như vậy, thưa các Hiền Giả, là nói một cách chơn chánh không?”
Yo nu kho, āvuso, evaṁ vadeyya: ‘na dānāyaṁ goṇo kiṭṭhādo punadeva kiṭṭhaṁ otarissatī’ti, sammā nu kho so, āvuso, vadamāno vadeyyā”ti?
“Thưa không, thưa Hiền giả.
“No hidaṁ, āvuso”.
Sự kiện này, thưa Hiền giả, có xảy ra: Con bò ăn lúa ấy, sau khi bứt dây, hay phá sập chuồng, có thể xuống ruộng lúa nữa.”
“Ṭhānañhetaṁ, āvuso, vijjati, yaṁ so goṇo kiṭṭhādo dāmaṁ vā chetvā vajaṁ vā bhinditvā, atha punadeva kiṭṭhaṁ otareyyāti.
“Cũng vậy, này các Hiền giả, ở đây, một số người khi còn sống gần vị Bổn Sư, hay sống gần một vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, trong khi ấy, là người nhu hòa nhất trong những người nhu hòa, là người khiêm tốn nhất trong những người khiêm tốn, là người an tịnh nhất trong những người an tịnh.
Evamevaṁ kho, āvuso, idhekacco puggalo tāvadeva soratasorato hoti, nivātanivāto hoti, upasantupasanto hoti yāva satthāraṁ upanissāya viharati aññataraṁ vā garuṭṭhāniyaṁ sabrahmacāriṁ.
Khi người ấy rời khỏi bậc Ðạo Sư, rời khỏi vị đồng Phạm hạnh đóng vai trò y chỉ sư, vị ấy sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, các đại thần của vua, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo.
Yato ca kho so vapakassateva satthārā, vapakassati garuṭṭhāniyehi sabrahmacārīhi, so saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi bhikkhunīhi upāsakehi upāsikāhi raññā rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi.
Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, tham ái tấn công tâm vị ấy.
Tassa saṁsaṭṭhassa vissatthassa pākatassa bhassamanuyuttassa viharato rāgo cittaṁ anuddhaṁseti.
Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục.
So rāgānuddhaṁsitena cittena sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
3. Ví như có hạng người ly dục…, chứng và trú sơ Thiền.
Idha panāvuso, ekacco puggalo vivicceva kāmehi …pe… paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Với tư tưởng: “Ta đã được sơ Thiền”, vị ấy sống giao thiệp với các Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi paṭhamassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
Ví như, này các Hiền giả, một cơn mưa to lớn xảy ra tại ngã tư đường, khiến cho bụi bặm biến mất và bùn hiện ra.
Seyyathāpi, āvuso, cātumahāpathe thullaphusitako devo vassanto rajaṁ antaradhāpeyya, cikkhallaṁ pātukareyya.
Này các Hiền giả, nếu có ai nói như sau: ‘Nay tại ngã tư đường này, bụi sẽ không hiện ra nữa’. Người ấy nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?”
Yo nu kho, āvuso, evaṁ vadeyya: ‘na dāni amusmiṁ cātumahāpathe punadeva rajo pātubhavissatī’ti, sammā nu kho so, āvuso, vadamāno vadeyyā”ti?
“Thưa không, thưa Hiền giả.
“No hidaṁ, āvuso”.
Sự kiện này có xảy ra, thưa Hiền giả: “Tại ngã tư đường này, có người đi qua, hay có trâu bò đi qua, hay gió và nóng có thể làm cho khô khí ẩm ướt và bụi sẽ hiện ra trở lại.”
“Ṭhānañhetaṁ, āvuso, vijjati, yaṁ amusmiṁ cātumahāpathe manussā vā atikkameyyuṁ, gopasū vā atikkameyyuṁ, vātātapo vā snehagataṁ pariyādiyeyya, atha punadeva rajo pātubhaveyyāti.
“Cũng như vậy, thưa các Hiền giả, ở đây có hạng người ly dục… chứng và trú Thiền thứ nhất.
Evamevaṁ kho, āvuso, idhekacco puggalo vivicceva kāmehi …pe… paṭhamaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị ấy, với ý nghĩa: “Ta đã chứng sơ thiền”, sống giao thiệp với các Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi paṭhamassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
4. Ở đây, này các Hiền giả, có hạng người làm cho tịnh chỉ tầm và tứ… chứng và trú Thiền thứ hai …
Idha panāvuso, ekacco puggalo vitakkavicārānaṁ vūpasamā …pe… dutiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị ấy, với ý nghĩa: “Ta đã chứng được Thiền thứ hai”, giao thiệp với các Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi dutiyassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
Ví như, thưa các Hiền giả, một hồ nước lớn gần một làng hay thị trấn.
Seyyathāpi, āvuso, gāmassa vā nigamassa vā avidūre mahantaṁ taḷākaṁ.
Tại đấy, một cơn mưa to xảy đến, khiến cho các loài sò ốc, các đá sỏi biến mất.
Tattha thullaphusitako devo vuṭṭho sippisambukampi sakkharakaṭhalampi antaradhāpeyya.
Thưa các Hiền giả, nếu có ai nói như sau: “Nay tại hồ nước này, các loại sò ốc, các đá sỏi sẽ không xuất hiện ra nữa”. Người ấy nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?”
Yo nu kho, āvuso, evaṁ vadeyya: ‘na dāni amusmiṁ taḷāke punadeva sippisambukā vā sakkharakaṭhalā vā pātubhavissantī’ti, sammā nu kho so, āvuso, vadamāno vadeyyā”ti?
“Thưa không, thưa Hiền giả.
“No hidaṁ, āvuso”.
Sự kiện này có xảy ra, thưa Hiền giả: Tại hồ nước này, loài Người có thể uống, hay loài trâu bò có thể uống, hay gió và sức nóng có thể làm cho khô khí ẩm ướt, và các loài sò ốc, các đá sỏi có thể xuất hiện ra lại.”
“Ṭhānañhetaṁ, āvuso, vijjati, yaṁ amusmiṁ taḷāke manussā vā piveyyuṁ, gopasū vā piveyyuṁ, vātātapo vā snehagataṁ pariyādiyeyya, atha punadeva sippisambukāpi sakkharakaṭhalāpi pātubhaveyyunti.
“Cũng vậy, thưa các Hiền giả, ở đây có hạng người làm cho tịnh chỉ tầm và tứ … chứng và trú Thiền thứ hai.
Evamevaṁ kho, āvuso, idhekacco puggalo vitakkavicārānaṁ vūpasamā …pe… dutiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị ấy với ý nghĩ: “Ta đã chứng được Thiền thứ hai”, giao thiệp với các Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi dutiyassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
5. Ở đây, thưa các Hiền giả, có hạng người từ bỏ hỷ … chứng và trú Thiền thứ ba.
Idha panāvuso, ekacco puggalo pītiyā ca virāgā …pe… tatiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị ấy với ý nghĩ: “Ta đã chứng được Thiền thứ ba”, giao thiệp với các Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi tatiyassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
Ví như, thưa các Hiền giả, có người đã ăn đồ ăn thượng vị, không ưa thích các đồ ăn hôm qua để lại.
Seyyathāpi, āvuso, purisaṁ paṇītabhojanaṁ bhuttāviṁ ābhidosikaṁ bhojanaṁ nacchādeyya.
Thưa các Hiền giả, nếu ai nói như sau: “Nay người này không còn ưa thích đồ ăn nữa”, thưa các Hiền giả, người ấy nói như vậy có nói một cách chơn chánh không?”
Yo nu kho, āvuso, evaṁ vadeyya: ‘na dāni amuṁ purisaṁ punadeva bhojanaṁ chādessatī’ti, sammā nu kho so, āvuso, vadamāno vadeyyā”ti?
“Thưa không, thưa Hiền giả.
“No hidaṁ, āvuso”.
Sự kiện có xảy ra: Người này, thưa Hiền giả, khi ăn đồ ăn thượng vị, cho đến khi nào chất dinh dưỡng còn tồn tại trong thân, cho đến khi ấy, không có một món ăn nào khác sẽ làm vị ấy ưa thích.
“Ṭhānañhetaṁ, āvuso, vijjati, amuṁ purisaṁ paṇītabhojanaṁ bhuttāviṁ yāvassa sā ojā kāye ṭhassati tāva na aññaṁ bhojanaṁ chādessati.
Cho đến khi chất dinh dưỡng tiêu mất, khi ấy món ăn có thể làm cho vị ấy ưa thích..”
Yato ca khvassa sā ojā antaradhāyissati, atha punadeva taṁ bhojanaṁ chādeyyāti.
“Cũng vậy, này các Hiền giả, ở đây có hạng người từ bỏ hỷ… chứng và trú Thiền thứ ba.
Evamevaṁ kho, āvuso, idhekacco puggalo pītiyā ca virāgā …pe… tatiyaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị ấy với ý nghĩ: “Ta đã chứng được Thiền thứ ba”, giao thiệp với các Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi tatiyassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
6. Ví như, này các Hiền giả, có hạng người từ bỏ lạc, từ bỏ khổ… chứng đạt và an trú Thiền thứ tư.
Idha, panāvuso, ekacco puggalo sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā …pe… catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị ấy với ý nghĩ: “Ta đã chứng được Thiền thứ tư”, giao thiệp với các Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi catutthassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
Ví như, này các Hiền giả, một hồ nước trong khe núi, không có gió, không có sóng.
Seyyathāpi, āvuso, pabbatasaṅkhepe udakarahado nivāto vigataūmiko.
Rồi thưa các Hiền giả, nếu có ai nói như sau: “Nay trong hồ nước này sẽ không hiện ra sóng nữa”, người ấy, thưa các Hiền giả, có nói một cách chơn chánh không?”
Yo nu kho, āvuso, evaṁ vadeyya: ‘na dāni amusmiṁ udakarahade punadeva ūmi pātubhavissatī’ti, sammā nu kho so, āvuso, vadamāno vadeyyā”ti?
“Thưa không, thưa Hiền giả.
“No hidaṁ, āvuso”.
Sự kiện này có thể xảy ra: Nếu từ phương Ðông, mưa to gió lớn đến, mưa to gió lớn ấy làm cho hồ nước ấy khởi sóng; nếu từ phương Tây… nếu từ phương Bắc… nếu từ phương Nam, mưa to gió lớn đến, mưa to gió lớn ấy làm cho hồ nước ấy khởi sóng.”
“Ṭhānañhetaṁ, āvuso, vijjati, yā puratthimāya disāya āgaccheyya bhusā vātavuṭṭhi. Sā tasmiṁ udakarahade ūmiṁ janeyya. Yā pacchimāya disāya āgaccheyya …pe… yā uttarāya disāya āgaccheyya … yā dakkhiṇāya disāya āgaccheyya bhusā vātavuṭṭhi. Sā tasmiṁ udakarahade ūmiṁ janeyyāti.
“Cũng vậy, này các Hiền giả, ở đây có hạng người từ bỏ lạc, từ bỏ khổ… chứng đạt và an trú Thiền thứ tư.
Evamevaṁ kho, āvuso, idhekacco puggalo sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā …pe… catutthaṁ jhānaṁ upasampajja viharati.
Vị ấy với ý nghĩ: “Ta đã chứng được Thiền thứ tư”, giao thiệp với Tỷ-kheo …
So ‘lābhimhi catutthassa jhānassā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi …pe…
từ bỏ học pháp và hoàn tục.
sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
7. Ở đây, này các Hiền giả, có hạng người không tác ý tất cả các tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định.
Idha, panāvuso, ekacco puggalo sabbanimittānaṁ amanasikārā animittaṁ cetosamādhiṁ upasampajja viharati.
Vị ấy, với ý nghĩ: “Ta đã chứng đạt được vô tướng tâm định”, sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, đại thần các vua chúa, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo.
So ‘lābhimhi animittassa cetosamādhissā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi bhikkhunīhi upāsakehi upāsikāhi raññā rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi.
Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, nên tham ái tấn công tâm vị ấy.
Tassa saṁsaṭṭhassa vissatthassa pākatassa bhassamanuyuttassa viharato rāgo cittaṁ anuddhaṁseti.
Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục.
So rāgānuddhaṁsitena cittena sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
Ví như, thưa các Hiền giả, một vị vua, hay đại thần của vua, đang đi giữa đường cùng với bốn loại binh chủng, đến trú ở một đêm tại một khóm rừng.
Seyyathāpi, āvuso, rājā vā rājamahāmatto vā caturaṅginiyā senāya addhānamaggappaṭipanno aññatarasmiṁ vanasaṇḍe ekarattiṁ vāsaṁ upagaccheyya.
Ở đấy, do tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng bộ binh, tiếng trống lớn, trống nhỏ, tiếng tù và, nên tiếng của con dế biến mất.
Tatra hatthisaddena assasaddena rathasaddena pattisaddena bheripaṇavasaṅkhatiṇavaninnādasaddena cīrikasaddo antaradhāyeyya.
Rồi này các Hiền giả, có người nói như sau: “Nay trong khóm rừng này, tiếng kêu của con dế không hiện ra nữa”. Người ấy nói như vậy, thưa các Hiền giả, có nói một cách chơn chánh không?”
Yo nu kho, āvuso, evaṁ vadeyya: ‘na dāni amusmiṁ vanasaṇḍe punadeva cīrikasaddo pātubhavissatī’ti, sammā nu kho so, āvuso, vadamāno vadeyyā”ti?
“Thưa không, thưa Hiền giả.
“No hidaṁ, āvuso”.
Sự kiện này có xảy ra, thưa Hiền giả: Khi nào vua hay vị đại thần của vua ra đi khỏi khóm rừng này, khi ấy tiếng con dế kêu sẽ hiện hữu.”
“Ṭhānañhetaṁ, āvuso, vijjati, yaṁ so rājā vā rājamahāmatto vā tamhā vanasaṇḍā pakkameyya, atha punadeva cīrikasaddo pātubhaveyyāti.
“Cũng vậy, thưa các Hiền giả, ở đây, có hạng người do không tác ý tất cả các tướng, chứng đạt và an trú vô tướng tâm định …
Evamevaṁ kho, āvuso, idhekacco puggalo sabbanimittānaṁ amanasikārā animittaṁ cetosamādhiṁ upasampajja viharati.
Vị ấy, với ý nghĩ: “Ta đạt được vô tướng tâm định”, sống giao thiệp với các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo-ni, với các nam cư sĩ, nữ cư sĩ, với các vua chúa, các đại thần của vua, với các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo.
So ‘lābhimhi animittassa cetosamādhissā’ti saṁsaṭṭho viharati bhikkhūhi bhikkhunīhi upāsakehi upāsikāhi raññā rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi.
Do vị ấy sống giao thiệp, phóng túng, thô lỗ, đam mê nói chuyện, nên tham ái tấn công tâm vị ấy.
Tassa saṁsaṭṭhassa vissatthassa pākatassa bhassamanuyuttassa viharato rāgo cittaṁ anuddhaṁseti.
Vị ấy, với tâm bị tham ái tấn công, liền từ bỏ học pháp và hoàn tục.”
So rāgānuddhaṁsitena cittena sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattatī”ti.
8. Rồi Tôn giả Citta Hatthisāriputta sau một thời gian từ bỏ học pháp và hoàn tục.
Atha kho āyasmā citto hatthisāriputto aparena samayena sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattati.
Rồi các Tỷ-kheo, bạn của Tôn giả Citta Hatthisāriputta đi đến Tôn giả Mahākoṭṭhita, sau khi đến nói với Tôn giả Mahākoṭṭhita:
Atha kho cittassa hatthisāriputtassa sahāyakā bhikkhū yenāyasmā mahākoṭṭhiko tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ mahākoṭṭhikaṁ etadavocuṁ:
“Có phải Tôn giả Mahākoṭṭhita biết được tâm của Citta Hatthisāriputta với tâm của mình:
“kiṁ nu kho āyasmatā mahākoṭṭhikena citto hatthisāriputto cetasā ceto paricca vidito:
‘Citta Hatthisāriputta đã chứng quả chứng này, quả chứng này, vị ấy sẽ từ bỏ học pháp và hoàn tục’;
‘imāsañca imāsañca vihārasamāpattīnaṁ citto hatthisāriputto lābhī, atha ca pana sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattissatī’ti;
hay là chư Thiên báo cho biết về vấn đề này?
udāhu devatā etamatthaṁ ārocesuṁ:
‘Thưa chư Hiền, tôi biết được tâm của Citta Hatthisāriputta với tâm của tôi, rằng Citta đã chứng được quả chứng này, quả chứng này.’”
‘citto, bhante, hatthisāriputto imāsañca imāsañca vihārasamāpattīnaṁ lābhī, atha ca pana sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattissatī’”ti?
“Chư Thiên cũng báo cho biết về vấn đề này:
“Cetasā ceto paricca vidito me, āvuso:
‘Citta Hatthisāriputta đã chứng được quả chứng này, quả chứng này, nhưng vị ấy sẽ từ bỏ học pháp và hoàn tục.’
‘citto hatthisāriputto imāsañca imāsañca vihārasamāpattīnaṁ lābhī, atha ca pana sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattissatī’ti.
Chư Thiên cũng báo cho biết về vấn đề này:
Devatāpi me etamatthaṁ ārocesuṁ:
‘Thưa Tôn giả, Citta Hatthisāriputta đã chứng được quả chứng này, quả chứng này, nhưng vị ấy sẽ từ bỏ học pháp và hoàn tục.’”
‘citto, bhante, hatthisāriputto imāsañca imāsañca vihārasamāpattīnaṁ lābhī, atha ca pana sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattissatī’”ti.
Rồi các bạn bè của Citta Hatthisāriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho cittassa hatthisāriputtassa sahāyakā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṁsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdiṁsu. Ekamantaṁ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṁ etadavocuṁ:
“Bạch Thế Tôn, Citta Hatthisāriputta đã chứng được quả chứng này, quả chứng này, nhưng đã từ bỏ học pháp và hoàn tục.”
“citto, bhante, hatthisāriputto imāsañca imāsañca vihārasamāpattīnaṁ lābhī, atha ca pana sikkhaṁ paccakkhāya hīnāyāvattatī”ti.
“Này các Tỷ-kheo, Citta không bao lâu sẽ nghĩ đến xuất ly.”
“Na, bhikkhave, citto ciraṁ sarissati nekkhammassā”ti.
9. Rồi Citta Hatthisāriputta không bao lâu cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Atha kho citto hatthisāriputto nacirasseva kesamassuṁ ohāretvā kāsāyāni vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṁ pabbaji.
Rồi Tôn giả Citta Hatthisāriputta sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng được mục đích mà các thiện nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, hướng đến. Ðó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, vị ấy ngay trong hiện tại đã tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú.
Atha kho āyasmā citto hatthisāriputto eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṁ pabbajanti, tadanuttaraṁ—brahmacariyapariyosānaṁ diṭṭheva dhamme sayaṁ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.
Vị ấy biết rõ rằng: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṁ brahmacariyaṁ, kataṁ karaṇīyaṁ, nāparaṁ itthattāyā”ti abbhaññāsi.
Và Tôn giả Citta Hatthisāriputta trở thành một vị A-la-hán.
Aññataro ca panāyasmā citto hatthisāriputto arahataṁ ahosīti.
Chaṭṭhaṁ.