Tăng Chi Bộ 6.62
Aṅguttara Nikāya 6.62
6. Đại Phẩm
6. Mahāvagga
Phân Tích Căn Trí Con Người
Purisindriyañāṇasutta
1. Như vầy tôi nghe:
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala với đại chúng Tỷ-kheo, đi đến một thị trấn của dân chúng Kosala tên là Daṇḍakappaka.
ekaṁ samayaṁ bhagavā kosalesu cārikaṁ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṁ yena daṇḍakappakaṁ nāma kosalānaṁ nigamo tadavasari.
Rồi Thế Tôn từ trên đường bước xuống, ngồi xuống trên chỗ đã được sửa soạn dưới một gốc cây; còn các Tỷ-kheo ấy đi vào Daṇḍakappaka để tìm chỗ ở.
Atha kho bhagavā maggā okkamma aññatarasmiṁ rukkhamūle paññatte āsane nisīdi. Te ca bhikkhū daṇḍakappakaṁ pavisiṁsu āvasathaṁ pariyesituṁ.
Bấy giờ Tôn giả Ānanda cùng với một số đông Tỷ-kheo, đi đến sông Aciravati để rửa tay chân.
Atha kho āyasmā ānando sambahulehi bhikkhūhi saddhiṁ yena aciravatī nadī tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṁ.
Sau khi rửa tay chân ở sông Aciravati xong, ra khỏi sông, đứng trên bờ đắp một y để phơi tay chân cho khô.
Aciravatiyā nadiyā gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno.
2. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Tôn giả Ānanda, sau khi đến, thưa với Tôn giả Ānanda:
Atha kho aññataro bhikkhu yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṁ ānandaṁ etadavoca:
“Có phải Thế Tôn tập trung tất cả tâm, thưa Tôn giả Ānanda, để tuyên bố về Devadatta như sau:
“kiṁ nu kho, āvuso ānanda, sabbaṁ cetaso samannāharitvā nu kho devadatto bhagavatā byākato:
“Devadatta phải sanh vào đọa xứ, phải sanh vào địa ngục cho đến một kiếp, không thể cứu hộ được” hay có phải nhờ một Thiên nhân?”
‘āpāyiko devadatto nerayiko kappaṭṭho atekiccho’ti, udāhu kenacideva pariyāyenāti?
“Thật đúng như Thế Tôn đã tuyên bố.”
Evaṁ kho panetaṁ, āvuso, bhagavatā byākatan”ti.
Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṁ etadavoca:
Ở đây, bạch Thế Tôn, với một số đông Tỷ-kheo, con đi đến sông Aciravati để rửa tay chân, sau khi rửa tay chân ở sông Aciravati xong, ra khỏi sông, đứng trên bờ đắp một tấm y để phơi tay chân cho khô.
“idhāhaṁ, bhante, sambahulehi bhikkhūhi saddhiṁ yena aciravatī nadī tenupasaṅkamiṁ gattāni parisiñcituṁ. Aciravatiyā nadiyā gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsiṁ gattāni pubbāpayamāno.
Rồi bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo đi đến con, sau khi đến thưa với con:
Atha kho, bhante, aññataro bhikkhu yenāhaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṁ etadavoca:
‘Có phải Thế Tôn tập trung tất cả tâm, thưa Tôn giả Ānanda, để tuyên bố về Devadatta như sau:
‘kiṁ nu kho, āvuso ānanda, sabbaṁ cetaso samannāharitvā nu kho devadatto bhagavatā byākato—
Devadatta phải sanh vào đọa xứ, phải sanh vào địa ngục cho đến một kiếp, không thể cứu độ được hay có phải nhờ một Thiên nhân?’
āpāyiko devadatto nerayiko kappaṭṭho atekicchoti, udāhu kenacideva pariyāyenā’ti?
Khi được nói vậy, bạch Thế Tôn, con trả lời Tỷ-kheo ấy:
Evaṁ vutte, ahaṁ, bhante, taṁ bhikkhuṁ etadavocaṁ:
‘Thưa Hiền giả, thật đúng như Thế Tôn đã tuyên bố’”.
‘evaṁ kho panetaṁ, āvuso, bhagavatā byākatan’”ti.
“Này Ānanda, hoặc Tỷ-kheo ấy là vị tân nhập, xuất gia chưa được bao lâu, hay vị ấy là Tỷ-kheo trưởng lão ngu si, không thông minh.
“So vā kho, ānanda, bhikkhu navo bhavissati acirapabbajito, thero vā pana bālo abyatto.
Làm sao khi ta đã tuyên bố một chiều, ở đây lại có thể có trường hợp thứ hai được?
Kathañhi nāma yaṁ mayā ekaṁsena byākataṁ tattha dvejjhaṁ āpajjissati.
Ta không thể thấy về một người nào khác, này Ānanda, sau khi tập trung tất cả tâm, Ta đã tuyên bố như vậy, trừ với Devadatta.
Nāhaṁ, ānanda, aññaṁ ekapuggalampi samanupassāmi, yo evaṁ mayā sabbaṁ cetaso samannāharitvā byākato, yathayidaṁ devadatto.
Cho đến khi nào, này Ānanda, Ta thấy một pháp trắng nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa ở Devadatta;
Yāvakīvañcāhaṁ, ānanda, devadattassa vālaggakoṭinittudanamattampi sukkadhammaṁ addasaṁ;
Thời Ta đã không tuyên bố về Devadatta như sau:
neva tāvāhaṁ devadattaṁ byākāsiṁ:
‘Devadatta phải sanh vào đọa xứ, phải sanh vào địa ngục cho đến một kiếp, không thể cứu độ được’.
‘āpāyiko devadatto nerayiko kappaṭṭho atekiccho’ti.
Cho đến khi nào, này Ānanda, Ta không thấy một pháp trắng nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa ở Davadatta,
Yato ca kho ahaṁ, ānanda, devadattassa vālaggakoṭinittudanamattampi sukkadhammaṁ na addasaṁ;
Cho nên Ta đã tuyên bố về Devadatta như sau:
athāhaṁ devadattaṁ byākāsiṁ:
‘Devadatta phải sanh vào đọa xứ, phải sanh vào địa ngục cho đến một kiếp, không thể cứu hộ được’.
‘āpāyiko devadatto nerayiko kappaṭṭho atekiccho’ti.
Ví như, này Ānanda, một hố phân cao hơn đầu người, đầy cả phân.
Seyyathāpi, ānanda, gūthakūpo sādhikaporiso pūro gūthassa samatittiko.
Một người rơi vào hố phân cho đến cả đầu.
Tatra puriso sasīsako nimuggo assa.
Rồi một người khác đi đến, muốn lợi ích, muốn hạnh phúc, muốn người ấy an ổn khỏi các khổ ách, muốn kéo người ấy ra khỏi hố phân ấy.
Tassa kocideva puriso uppajjeyya atthakāmo hitakāmo yogakkhemakāmo tamhā gūthakūpā uddharitukāmo.
Người này đi vòng quanh hố phân và không thấy cho đến một điểm nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa ở người ấy mà không bị dính phân, để có thể nắm lấy chỗ ấy và kéo lên.
So taṁ gūthakūpaṁ samantānuparigacchanto neva passeyya tassa purisassa vālaggakoṭinittudanamattampi gūthena amakkhitaṁ, yattha taṁ gahetvā uddhareyya.
Cũng vậy, này Ānanda, cho đến khi nào, Ta thấy một pháp trắng nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa ở Devadatta;
Evamevaṁ kho ahaṁ, ānanda, yato devadattassa vālaggakoṭinittudanamattampi sukkadhammaṁ na addasaṁ;
Thời Ta đã không tuyên bố về Devadatta như sau:
athāhaṁ devadattaṁ byākāsiṁ:
‘Devadatta phải sanh vào đọa xứ, phải sanh vào địa ngục cho đến một kiếp, không thể cứu hộ được’.
‘āpāyiko devadatto nerayiko kappaṭṭho atekiccho’ti.
Nếu thầy muốn nghe, này Ānanda, Như Lai sẽ phân tích về căn trí của con người.”
Sace tumhe, ānanda, suṇeyyātha tathāgatassa purisindriyañāṇāni vibhajissāmī”ti?
“Nay đã đến thời, bạch Thế Tôn! Nay đã đến thời, bạch Thiên Thệ!
“Etassa, bhagavā, kālo; etassa, sugata, kālo
Để Thế Tôn phân tích các căn trí của con người, sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.”
yaṁ bhagavā purisindriyañāṇāni vibhajeyya. Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.
“Vậy này Ānanda, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói”.
“Tenahānanda, suṇāhi, sādhukaṁ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”, tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn.
“Evaṁ, bhante”ti kho āyasmā ānando bhagavato paccassosi.
Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:
“3. Ở đây, này Ānanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của một người khác:
“Idhāhaṁ, ānanda, ekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện.’
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian khác, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, các pháp thiện đã biến mất, các pháp bất thiện đang hiện hữu, nhưng còn có cội gốc thiện chưa bị cắt đứt. Và pháp thiện sẽ khởi lên từ cội gốc thiện ấy
‘imassa kho puggalassa kusalā dhammā antarahitā, akusalā dhammā sammukhībhūtā. Atthi ca khvassa kusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tamhā tassa kusalā kusalaṁ pātubhavissati.
Như vậy người này sẽ không bị thối đọa trong tương lai.’
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ aparihānadhammo bhavissatī’ti.
Ví như, này Ānanda, các hột giống chưa bị bể vụn, chưa bị hư thối, chưa bị gió và sức nóng phá hoại, còn giữ được sức sống bám sâu trong cánh đồng, được gieo trên mảnh đất khéo sửa soạn.
Seyyathāpi, ānanda, bījāni akhaṇḍāni apūtīni avātātapahatāni sāradāni sukhasayitāni sukhette suparikammakatāya bhūmiyā nikkhittāni.
Này Ānanda, Thầy có thể biết những hột giống này sẽ được lớn lên, được tăng trưởng, được lớn mạnh không?”
Jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, imāni bījāni vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissantī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Cũng vậy, này Ānanda, ở đây, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của một người khác:
“Evamevaṁ kho ahaṁ, ānanda, idhekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện.
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian khác, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
Trong người này, các pháp thiện đã biến mất, các pháp bất thiện đang hiện hữu. Nhưng còn có cội gốc thiện chưa bị cắt đứt. Và thiện pháp sẽ khởi lên từ cội gốc thiện ấy
‘imassa kho puggalassa kusalā dhammā antarahitā, akusalā dhammā sammukhībhūtā. Atthi ca khvassa kusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tamhā tassa kusalā kusalaṁ pātubhavissati.
Như vậy người này sẽ không bị thối đọa trong tương lai.
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ aparihānadhammo bhavissatī’ti.
Như vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình biết được tâm của loài Người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisapuggalo cetasā ceto paricca vidito hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình đã biết được các căn trí của người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisindriyañāṇaṁ cetasā ceto paricca viditaṁ hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình biết được pháp sanh khởi trong tương lai.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa āyatiṁ dhammasamuppādo cetasā ceto paricca vidito hoti.
4. Ở đây, này Ānanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của một người khác:
Idha panāhaṁ, ānanda, ekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện.’
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian khác, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, các pháp bất thiện đã biến mất, các pháp thiện đang hiện hữu, nhưng còn có cội gốc bất thiện chưa bị cắt đứt và các pháp bất thiện sẽ khởi lên từ cội gốc bất thiện ấy.
‘imassa kho puggalassa akusalā dhammā antarahitā, kusalā dhammā sammukhībhūtā. Atthi ca khvassa akusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tamhā tassa akusalā akusalaṁ pātubhavissati.
Như vậy người này sẽ bị thối đọa trong tương lai.’
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ parihānadhammo bhavissatī’ti.
Ví như, này Ānanda, các hột giống chưa bị bể vụn, chưa bị hư thối, chưa bị gió và sức nóng phá hoại, còn giữ được sức sống, được bám sâu trong cánh đồng, được gieo trên mảnh đất đầy sỏi đá.
Seyyathāpi, ānanda, bījāni akhaṇḍāni apūtīni avātātapahatāni sāradāni sukhasayitāni puthusilāya nikkhittāni.
Này Ānanda, Thầy có thể rõ biết những hột giống này sẽ không có thể được lớn lên, được tăng trưởng, được lớn mạnh không?”
Jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, nayimāni bījāni vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissantī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Cũng vậy, này Ānanda, ở đây, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác:
“Evamevaṁ kho ahaṁ, ānanda, idhekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện.
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian khác, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
Trong người này, các pháp bất thiện đã biến mất, các pháp thiện đang hiện hữu, nhưng cội gốc của pháp bất thiện chưa được cắt đứt và các pháp bất thiện sẽ khởi lên từ cội gốc bất thiện ấy.
‘imassa kho puggalassa akusalā dhammā antarahitā, kusalā dhammā sammukhībhūtā. Atthi ca khvassa akusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tamhā tassa akusalā akusalaṁ pātubhavissati.
Như vậy người này sẽ bị thối đọa trong tương lai.
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ parihānadhammo bhavissatī’ti.
Như vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình, đã biết được tâm của loài Người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisapuggalo cetasā ceto paricca vidito hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình đã biết được các căn trí của người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisindriyañāṇaṁ cetasā ceto paricca viditaṁ hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình biết được pháp sanh khởi trong tương lai.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa āyatiṁ dhammasamuppādo cetasā ceto paricca vidito hoti.
5. Ở đây, này Ānanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác:
Idha panāhaṁ, ānanda, ekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện.’
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Người này không có pháp trắng cho đến nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa. Người này thành tựu với những pháp bất thiện, chỉ một mặt màu đen, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.’
‘natthi imassa puggalassa vālaggakoṭinittudanamattopi sukko dhammo, samannāgatoyaṁ puggalo ekantakāḷakehi akusalehi dhammehi, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjissatī’ti.
Ví như, này Ānanda, các hột giống bị bể vụn, bị hư thối, bị gió và sức nóng phá hoại, được bám sâu trong cánh đồng, được gieo trên mảnh đất khéo sửa soạn.
Seyyathāpi, ānanda, bījāni khaṇḍāni pūtīni vātātapahatāni sukhette suparikammakatāya bhūmiyā nikkhittāni.
Này Ānanda, Thầy có thể rõ biết những hột giống này không thể được lớn lên, được tăng trưởng, được lớn mạnh không?”
Jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, nayimāni bījāni vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissantī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Cũng vậy, này Ānanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác:
“Evamevaṁ kho ahaṁ, ānanda, idhekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
Trong người này, có những pháp thiện, và những pháp bất thiện.
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Người này không có pháp trắng cho đến nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa. Người này thành tựu với những pháp bất thiện, chỉ một mặt màu đen, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục’ …”
‘natthi imassa puggalassa vālaggakoṭinittudanamattopi sukko dhammo, samannāgatoyaṁ puggalo ekantakāḷakehi akusalehi dhammehi, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā apāyaṁ duggatiṁ vinipātaṁ nirayaṁ upapajjissatī’ti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình biết được tâm của loài Người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisapuggalo cetasā ceto paricca vidito hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình đã biết được các căn trí của người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisindriyañāṇaṁ cetasā ceto paricca viditaṁ hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình, biết được pháp sanh khởi trong tương lai.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa āyatiṁ dhammasamuppādo cetasā ceto paricca vidito hotī”ti.
Khi được nói vậy, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, āyasmā ānando bhagavantaṁ etadavoca:
“Bạch Thế Tôn, có thể tuyên bố ba hạng người khác đồng loại với ba người này hay không?”
“sakkā nu kho, bhante, imesaṁ tiṇṇaṁ puggalānaṁ aparepi tayo puggalā sappaṭibhāgā paññāpetun”ti?
“Có thể được, này Ānanda,” Thế Tôn nói như sau:
“Sakkā, ānandā”ti bhagavā avoca:
“6. Ở đây, này Ānanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác như sau:
“idhāhaṁ, ānanda, ekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện.’
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, các pháp thiện đã biến mất, các pháp bất thiện đang hiện khởi;
‘imassa kho puggalassa kusalā dhammā antarahitā, akusalā dhammā sammukhībhūtā.
Cội gốc thiện chưa bị cắt đứt và nhưng đi đến hoàn toàn bị nhổ lên bởi người ấy.
Atthi ca khvassa kusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tampi sabbena sabbaṁ samugghātaṁ gacchati.
Như vậy, người này sẽ đi đến thối đọa trong tương lai.’
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ parihānadhammo bhavissatī’ti.
Ví như, này Ānanda, các cục than cháy đỏ, rực cháy, cháy lửa ngọn, được quăng trên đất sỏi.
Seyyathāpi, ānanda, aṅgārāni ādittāni sampajjalitāni sajotibhūtāni puthusilāya nikkhittāni.
Này Ānanda, Thầy có biết không, đống than này không có thể lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh?”
Jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, nayimāni aṅgārāni vuddhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissantī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Ví như, này Ānanda, vào buổi chiều, mặt trời đang lặn, Thầy có thể biết được chăng, này Ānanda, biết rằng: ‘Ánh sáng đã biến mất, bóng tối đã xuất hiện’?”
“Seyyathāpi vā pana, ānanda, sāyanhasamayaṁ sūriye ogacchante, jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, āloko antaradhāyissati andhakāro pātubhavissatī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Ví như, này Ānanda, khi đêm đã qua một phần, trong thời gian ăn cơm, Thầy có biết chăng, này Ānanda, biết rằng: ‘Ánh sáng đã biến mất, bóng tối đã xuất hiện’?”
“Seyyathāpi vā, panānanda, abhido addharattaṁ bhattakālasamaye, jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, āloko antarahito andhakāro pātubhūto”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Cũng vậy, này Ānanda, ở đây với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác như sau:
“Evamevaṁ kho ahaṁ, ānanda, idhekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện’.
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy, biết rằng:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, các pháp thiện đã biến mất, các pháp bất thiện đã hiện khởi.
‘imassa kho puggalassa kusalā dhammā antarahitā, akusalā dhammā sammukhībhūtā.
Và cội gốc thiện chưa bị cắt đứt, đi đến hoàn toàn bị nhổ lên bởi người ấy.
Atthi ca khvassa kusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tampi sabbena sabbaṁ samugghātaṁ gacchati.
Như vậy, người này sẽ đi đến thối đọa trong tương lai.
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ parihānadhammo bhavissatī’ti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai biết được tâm của loài Người, với tâm của mình.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisapuggalo cetasā ceto paricca vidito hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình đã biết được các căn trí của người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisindriyañāṇaṁ cetasā ceto paricca viditaṁ hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình, biết được pháp sanh khởi trong tương lai.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa āyatiṁ dhammasamuppādo cetasā ceto paricca vidito hoti.
7. Ở đây, này Ānanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác như sau:
Idha panāhaṁ, ānanda, ekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện.’
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, các pháp bất thiện đã biến mất, các pháp thiện hiện khởi;
‘imassa kho puggalassa akusalā dhammā antarahitā, kusalā dhammā sammukhībhūtā.
cội gốc bất thiện chưa bị cắt đứt, nhưng đi đến hoàn toàn bị nhổ lên bởi người ấy.
Atthi ca khvassa akusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tampi sabbena sabbaṁ samugghātaṁ gacchati.
Như vậy, người này sẽ không phải bị thối đọa trong tương lai.’
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ aparihānadhammo bhavissatī’ti.
Ví như, này Ānanda, đống than cháy đỏ, rực cháy, cháy lửa ngọn, quăng trên một đống cỏ khô, hay trên đống củi khô.
Seyyathāpi, ānanda, aṅgārāni ādittāni sampajjalitāni sajotibhūtāni sukkhe tiṇapuñje vā kaṭṭhapuñje vā nikkhittāni.
Này Ānanda, Thầy có biết chăng, đống than này sẽ được lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh?”
Jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, imāni aṅgārāni vuḍḍhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissantī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Ví như, này Ānanda, đêm đã gần mãn, mặt trời đang mọc; này Ānanda, Thầy có biết chăng bóng tối sắp sửa biến mất, ánh sáng sẽ hiện ra?”
“Seyyathāpi vā panānanda, rattiyā paccūsasamayaṁ sūriye uggacchante, jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, andhakāro antaradhāyissati, āloko pātubhavissatī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Ví như, này Ānanda, trong một thời gian sau, vào giữa trưa, vào giờ ăn cơm, Thầy có biết chăng, này Ānanda, bóng tối đã biến mất, ánh sáng đã hiện ra?”
“Seyyathāpi vā panānanda, abhido majjhanhike bhattakālasamaye, jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, andhakāro antarahito āloko pātubhūto”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Cũng vậy, này Ānanda, ở đây, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác như sau:
“Evamevaṁ kho ahaṁ, ānanda, idhekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, có những pháp bất thiện’.
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian khác, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, pháp bất thiện đã biến mất, các pháp thiện được hiện khởi;
‘imassa kho puggalassa akusalā dhammā antarahitā, kusalā dhammā sammukhībhūtā.
cội gốc bất thiện chưa bị cắt đứt, nhưng đi đến hoàn toàn bị nhổ lên bởi người ấy.
Atthi ca khvassa akusalamūlaṁ asamucchinnaṁ, tampi sabbena sabbaṁ samugghātaṁ gacchati.
Như vậy, người này sẽ không phải bị thối đọa trong tương lai.
Evamayaṁ puggalo āyatiṁ aparihānadhammo bhavissatī’ti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai biết được tâm của loài Người với tâm của mình.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisapuggalo cetasā ceto paricca vidito hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình đã biết được các căn trí của người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisindriyañāṇaṁ cetasā ceto paricca viditaṁ hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình, biết được pháp sanh khởi trong tương lai.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa āyatiṁ dhammasamuppādo cetasā ceto paricca vidito hoti.
8. Ở đây, này Ānanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác như sau:
Idha panāhaṁ, ānanda, ekaccaṁ puggalaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, cũng có những pháp bất thiện.’
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này không có pháp bất thiện cho đến nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa. Người này thành tựu với những pháp thuần túy trắng, những pháp không có lỗi lầm, ngay trong hiện tại, sẽ được nhập Niết-bàn.’
‘natthi imassa puggalassa vālaggakoṭinittudanamattopi akusalo dhammo, samannāgatoyaṁ puggalo ekantasukkehi anavajjehi dhammehi, diṭṭheva dhamme parinibbāyissatī’ti.
Ví như, này Ānanda, những cục than nguội lạnh, đã dập tắt, bị quăng trên đống cỏ hay trên đống củi khô.
Seyyathāpi, ānanda, aṅgārāni sītāni nibbutāni sukkhe tiṇapuñje vā kaṭṭhapuñje vā nikkhittāni.
Này Ānanda, Thầy có biết chăng, đống than này không thể lớn lên, tăng trưởng, lớn mạnh?”
Jāneyyāsi tvaṁ, ānanda, nayimāni aṅgārāni vuḍḍhiṁ virūḷhiṁ vepullaṁ āpajjissantī”ti?
“Thưa có, bạch Thế Tôn.”
“Evaṁ, bhante”.
“Cũng vậy, ở đây này Aụnanda, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người khác như sau:
“Evamevaṁ kho ahaṁ, ānanda, idhekaccaṁ puggalaṁ evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này, có những pháp thiện, cũng có những pháp bất thiện’.
‘imassa kho puggalassa vijjamānā kusalāpi dhammā akusalāpi dhammā’ti.
Sau một thời gian, cũng vậy, với tâm của Ta, Ta rõ biết tâm của người ấy:
Tamenaṁ aparena samayena evaṁ cetasā ceto paricca pajānāmi:
‘Trong người này không có pháp bất thiện cho đến nhỏ như đầu sợi lông đuôi ngựa. Người này thành tựu với những pháp thuần túy trắng, những pháp không có lỗi lầm, ngay trong hiện tại, sẽ được nhập Niết-bàn.’
‘natthi imassa puggalassa vālaggakoṭinittudanamattopi akusalo dhammo, samannāgatoyaṁ puggalo ekantasukkehi anavajjehi dhammehi, diṭṭheva dhamme parinibbāyissatī’ti.
Như vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình biết được tâm của loài Người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisapuggalo cetasā ceto paricca vidito hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình đã biết được các căn trí của người.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa purisindriyañāṇaṁ cetasā ceto paricca viditaṁ hoti.
Cũng vậy, này Ānanda, Như Lai với tâm của mình, biết được pháp sanh khởi trong tương lai.
Evampi kho, ānanda, tathāgatassa āyatiṁ dhammasamuppādo cetasā ceto paricca vidito hoti.
Ở đây, này Ānanda, ba hạng người trước, một trong ba người ấy không phải bị thối đọa, một phải bị thối đọa, một bị rơi vào đọa xứ, địa ngục.
Tatrānanda, ye te purimā tayo puggalā tesaṁ tiṇṇaṁ puggalānaṁ eko aparihānadhammo, eko parihānadhammo, eko āpāyiko nerayiko.
Ở đây, này Ānanda, trong ba hạng người sau, một trong ba hạng người này không phải bị thối đọa, một phải bị thối đọa, một được nhập Niết-bàn.”
Tatrānanda, yeme pacchimā tayo puggalā imesaṁ tiṇṇaṁ puggalānaṁ eko parihānadhammo, eko aparihānadhammo, eko parinibbānadhammo”ti.
Aṭṭhamaṁ.