WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

AN 9.3 Meghiya

Tăng Chi Bộ 9.3
Aṅguttara Nikāya 9.3

1. Phẩm Chánh Giác
1. Sambodhivagga

Meghiya
Meghiyasutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Cālikā, tại núi Cālikā.
Ekaṁ samayaṁ bhagavā cālikāyaṁ viharati cālikāpabbate.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Meghiya là người thị giả Thế Tôn.
Tena kho pana samayena āyasmā meghiyo bhagavato upaṭṭhāko hoti.

Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā meghiyo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi. Ekamantaṁ ṭhito kho āyasmā meghiyo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con muốn đi vào làng Jantu để khất thực.”
“icchāmahaṁ, bhante, jantugāmaṁ piṇḍāya pavisitun”ti.

“Này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời.”
“Yassadāni tvaṁ, meghiya, kālaṁ maññasī”ti.

2. Rồi Tôn giả Meghiya vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng Jantu để khất thực.
Atha kho āyasmā meghiyo pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya jantugāmaṁ piṇḍāya pāvisi.

Sau khi khất thực ở làng Jantu xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến bờ sông Kimikālā.
Jantugāme piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena kimikāḷāya nadiyā tīraṁ tenupasaṅkami.

Trong khi bộ hành, đi bách bộ qua lại trên bờ sông Kimikāla, Tôn giả Meghiya thấy một rừng xoài đẹp đẽ khả ái.
Addasā kho āyasmā meghiyo kimikāḷāya nadiyā tīre jaṅghāvihāraṁ anucaṅkamamāno anuvicaramāno ambavanaṁ pāsādikaṁ ramaṇīyaṁ.

Thấy vậy Tôn giả suy nghĩ:
Disvānassa etadahosi:

“Rừng xoài này thật là đẹp đẽ khả ái. Vậy thật là vừa đủ để cho thiện nam tử ưa thích tinh cần để tinh cần.
“pāsādikaṁ vatidaṁ ambavanaṁ ramaṇīyaṁ, alaṁ vatidaṁ kulaputtassa padhānatthikassa padhānāya.

Và nếu Thế Tôn chấp thuận, ta sẽ đi đến rừng xoài này để tinh cần.”
Sace maṁ bhagavā anujāneyya, āgaccheyyāhaṁ imaṁ ambavanaṁ padhānāyā”ti.

3. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên. Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā meghiyo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā meghiyo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, ở đây vào buổi sáng con đắp y, cầm y bát và đi vào làng Jantu để khất thực. Ði khất thực xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, con đi đến bờ sông Kimikālā.
“Idhāhaṁ, bhante, pubbaṇhasamayaṁ nivāsetvā pattacīvaramādāya jantugāmaṁ piṇḍāya pāvisiṁ. Jantugāme piṇḍāya caritvā pacchābhattaṁ piṇḍapātapaṭikkanto yena kimikāḷāya nadiyā tīraṁ tenupasaṅkamiṁ.

Bạch Thế Tôn, khi con bộ hành, đi bách bộ qua lại trên bờ sông Kimikālā, con thấy một rừng xoài đẹp đẽ khả ái.
Addasaṁ kho ahaṁ, bhante, kimikāḷāya nadiyā tīre jaṅghāvihāraṁ anucaṅkamamāno anuvicaramāno ambavanaṁ pāsādikaṁ ramaṇīyaṁ.

Thấy vậy, con suy nghĩ như sau:
Disvāna me etadahosi:

‘Rừng xoài này thật đẹp đẽ, khả ái.
‘pāsādikaṁ vatidaṁ ambavanaṁ ramaṇīyaṁ.

Vậy thật là vừa đủ cho thiện nam tử ưa thích tinh cần để tinh cần
Alaṁ vatidaṁ kulaputtassa padhānatthikassa padhānāya.

Và nếu Thế Tôn chấp thuận ta, ta sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần’.
Sace maṁ bhagavā anujāneyya, āgaccheyyāhaṁ imaṁ ambavanaṁ padhānāyā’ti.

“Và nếu Thế Tôn chấp thuận ta, ta sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần.”
Sace maṁ bhagavā anujāneyya, gaccheyyāhaṁ taṁ ambavanaṁ padhānāyā”ti.

“Hãy chờ đợi này Meghiya cho đến khi một Tỷ-kheo khác có mặt, vì chúng ta chỉ có một mình.”
“Āgamehi tāva, meghiya. Ekakamhi tāva yāva aññopi koci bhikkhu āgacchatī”ti.

4. Lần thứ hai, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Dutiyampi kho āyasmā meghiyo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn không có gì nữa cần phải làm thêm, không có cái gì cần phải làm thêm vào sự việc đã làm.
“bhagavato, bhante, natthi kiñci uttari karaṇīyaṁ, natthi katassa paṭicayo.

Còn con, bạch Thế Tôn, có sự việc cần phải làm thêm, còn có việc cần phải làm thêm vào sự việc đã làm.
Mayhaṁ kho pana, bhante, atthi uttari karaṇīyaṁ, atthi katassa paṭicayo.

Nếu Thế Tôn chấp thuận con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần.”
Sace maṁ bhagavā anujāneyya, gaccheyyāhaṁ taṁ ambavanaṁ padhānāyā”ti.

“Hãy chờ đợi này Maghiya, cho đến khi một Tỷ-kheo khác có mặt, vì chúng ta chỉ có một mình.”
“Āgamehi tāva, meghiya, ekakamhi tāva yāva aññopi koci bhikkhu āgacchatī”ti.

5. Lần thứ ba, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Tatiyampi kho āyasmā meghiyo bhagavantaṁ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không có gì nữa cần phải làm thêm, không có cái gì cần phải thêm vào sự việc đã làm.
“bhagavato, bhante, natthi kiñci uttari karaṇīyaṁ, natthi katassa paṭicayo.

Còn con, bạch Thế Tôn, có sự việc cần phải làm thêm, còn có việc cần phải làm thêm vào sự việc đã làm.
Mayhaṁ kho pana, bhante, atthi uttari karaṇīyaṁ, atthi katassa paṭicayo.

Nếu Thế Tôn chấp thuận con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần.”
Sace maṁ bhagavā anujāneyya, gaccheyyāhaṁ taṁ ambavanaṁ padhānāyā”ti.

“Này Meghia, khi Thầy đã nói tinh cần, thời chúng ta có thể còn nói gì nữa?
“Padhānanti kho, meghiya, vadamānaṁ kinti vadeyyāma.

Vậy này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời.”
Yassadāni tvaṁ, meghiya, kālaṁ maññasī”ti.

6. Rồi Tôn giả Meghiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, ra đi đến rừng xoài ấy, sau khi đến, đi sâu vào rừng xoài, rồi ngồi nghỉ ban ngày dưới một gốc cây.
Atha kho āyasmā meghiyo uṭṭhāyāsanā bhagavantaṁ abhivādetvā padakkhiṇaṁ katvā yena taṁ ambavanaṁ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṁ ambavanaṁ ajjhogāhetvā aññatarasmiṁ rukkhamūle divāvihāraṁ nisīdi.

Trong khi Tôn giả Meghiya trú trong rừng ấy, phần lớn ba ác bất thiện tầm hiện hành, tức là—
Atha kho āyasmato meghiyassa tasmiṁ ambavane viharantassa yebhuyyena tayo pāpakā akusalā vitakkā samudācaranti, seyyathidaṁ—

dục tầm, sân tầm và hại tầm.
kāmavitakko, byāpādavitakko, vihiṁsāvitakko.

Rồi Tôn giả Meghiya suy nghĩ như sau:
Atha kho āyasmato meghiyassa etadahosi:

“Thật vi diệu thay, thật hy hữu thay.
“acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho.

Ta vì lòng tin đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Saddhāya ca vatamhā agārasmā anagāriyaṁ pabbajitā;

Nhưng ba ác bất thiện tầm này xâm nhập tức là:
atha ca panimehi tīhi pāpakehi akusalehi vitakkehi anvāsattā—

dục tầm, sân tầm, hại tầm.”
kāmavitakkena, byāpādavitakkena, vihiṁsāvitakkenā”ti.

7. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā meghiyo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ nisīdi. Ekamantaṁ nisinno kho āyasmā meghiyo bhagavantaṁ etadavoca:

Ở đây, bạch Thế Tôn, khi con sống tại rừng xoài ấy, ba ác bất thiện tầm hiện hành, tức là:
“Idha mayhaṁ, bhante, tasmiṁ ambavane viharantassa yebhuyyena tayo pāpakā akusalā vitakkā samudācaranti, seyyathidaṁ—

dục tầm, sân tầm, hại tầm.
kāmavitakko, byāpādavitakko, vihiṁsāvitakko.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṁ, bhante, etadahosi:

‘Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay!
‘acchariyaṁ vata bho, abbhutaṁ vata bho.

Ta vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Saddhāya ca vatamhā agārasmā anagāriyaṁ pabbajitā;

Nhưng ba ác bất thiện tầm này xâm nhập, tức là:
atha ca panimehi tīhi pāpakehi akusalehi vitakkehi anvāsattā—

dục tầm, sân tầm, hại tầm.”
kāmavitakkena, byāpādavitakkena, vihiṁsāvitakkenā’”ti.

“Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, năm pháp đưa đến thuần thục. Thế nào là năm?
“Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā pañca dhammā paripakkāya saṁvattanti. Katame pañca?

8. Ở đây, này Meghiya, Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện.
Idha, meghiya, bhikkhu kalyāṇamitto hoti kalyāṇasahāyo kalyāṇasampavaṅko.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ nhất đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṁ paṭhamo dhammo paripakkāya saṁvattati.

9. Lại nữa, này Meghiya, Tỷ-kheo có giới, sống được bảo vệ sự bảo vệ của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu học trong các học pháp.
Puna caparaṁ, meghiya, bhikkhu sīlavā hoti, pātimokkhasaṁvarasaṁvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ hai đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṁ dutiyo dhammo paripakkāya saṁvattati.

10. Lại nữa, này Meghiya, câu chuyện này có khả năng đoạn giảm (hướng thượng) đưa đến tâm được rộng mở, như luận về ít dục, luận về biết đủ, luận về viễn ly, luận về không tụ hội, luận về tinh tấn tinh cần, luận về giới, luận về định, luận về tuệ, luận về giải thoát, luận về giải thoát tri kiến. Những câu chuyện như vậy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức.
Puna caparaṁ, meghiya, yāyaṁ kathā abhisallekhikā cetovivaraṇasappāyā, seyyathidaṁ—appicchakathā santuṭṭhikathā pavivekakathā asaṁsaggakathā vīriyārambhakathā sīlakathā samādhikathā paññākathā vimuttikathā vimuttiñāṇadassanakathā, evarūpiyā kathāya nikāmalābhī hoti akicchalābhī akasiralābhī.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ ba đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṁ tatiyo dhammo paripakkāya saṁvattati.

11. Lại nữa, này Meghiya, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn để đoạn tận các pháp bất thiện, để được đầy đủ các pháp thiện, nỗ lực, kiên trì không từ bỏ gánh nặng trong các thiện pháp.
Puna caparaṁ, meghiya, bhikkhu āraddhavīriyo viharati akusalānaṁ dhammānaṁ pahānāya, kusalānaṁ dhammānaṁ upasampadāya, thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu dhammesu.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ tư đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṁ catuttho dhammo paripakkāya saṁvattati.

12. Lại nữa, này Meghiya, có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh và diệt, với Thánh thể nhập đi đến con đường đoạn tận khổ đau.
Puna caparaṁ, meghiya, bhikkhu paññavā hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammā dukkhakkhayagāminiyā.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ năm đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṁ pañcamo dhammo paripakkāya saṁvattati.

13. Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau:
Kalyāṇamittassetaṁ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṁ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa:

‘sẽ sống có giới, được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp.’
‘sīlavā bhavissati …pe… samādāya sikkhissati sikkhāpadesu’.

Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau:
Kalyāṇamittassetaṁ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṁ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa:

Câu chuyện này có khả năng đoạn giảm (hướng thượng) như luận về ít dục … Những câu chuyện như vậy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức.
‘yāyaṁ kathā abhisallekhikā cetovivaraṇasappāyā, seyyathidaṁ—appicchakathā …pe… vimuttiñāṇadassanakathā, evarūpiyā kathāya nikāmalābhī bhavissati akicchalābhī akasiralābhī’.

Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau: ‘Vị ấy sẽ sống tinh cần tinh tấn … không từ bỏ trách nhiệm trong các thiện pháp’.
Kalyāṇamittassetaṁ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṁ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa: ‘āraddhavīriyo viharissati …pe… anikkhittadhuro kusalesu dhammesu’.

Này Meghiya, Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau: ‘Vị ấy sẽ có trí tuệ … chơn chánh đoạn tận khổ đau’.
Kalyāṇamittassetaṁ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṁ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa: ‘paññavā bhavissati …pe… sammādukkhakkhayagāminiyā’.

Và này Meghiya, khi Tỷ-kheo ấy đến trú trong năm pháp này, bốn pháp nữa cần phải tu tập:
Tena ca pana, meghiya, bhikkhunā imesu pañcasu dhammesu patiṭṭhāya cattāro dhammā uttari bhāvetabbā—

tu tập tưởng bất tịnh để đoạn tận tham ái, tu tập từ bi để đoạn tận sân, tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra để cắt đứt tầm, tu tập tưởng vô thường để phá hoại ngã mạn.
asubhā bhāvetabbā rāgassa pahānāya, mettā bhāvetabbā byāpādassa pahānāya, ānāpānassati bhāvetabbā vitakkupacchedāya, aniccasaññā bhāvetabbā asmimānasamugghātāya.

Này Meghiya, với Tỷ-kheo có tưởng vô thường, tưởng vô ngã được tồn tại.
Aniccasaññino, meghiya, anattasaññā saṇṭhāti.

Có tưởng vô ngã, thời ngã mạn bị phá hoại, ngay trong hiện tại đạt được Niết-bàn.”
Anattasaññī asmimānasamugghātaṁ pāpuṇāti diṭṭheva dhamme nibbānan”ti.

Tatiyaṁ.