Trường Bộ 21
Dīgha Nikāya 21
Kinh Đế Thích Sở Vấn
Sakkapañhasutta
Nội dung
Như vầy tôi nghe.
Evaṁ me sutaṁ—
Một thời, Thế Tôn trú tại Magadha (Ma-kiệt-đà) phía Ðông thành Vương Xá (Rājagaha), tại làng Bà La Môn tên Ambasandā (Am-bà-la), trên ngọn núi Vediya (Tỳ-đà Sơn) phía Bắc ngôi làng, trong hang Indasāla (Nhơn-đà-sa-la).
ekaṁ samayaṁ bhagavā magadhesu viharati, pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṁ.
Lúc bấy giờ, Thiên chủ Sakka (Ðế-thích) náo nức muốn chiêm ngưỡng Thế Tôn.
Tena kho pana samayena sakkassa devānamindassa ussukkaṁ udapādi bhagavantaṁ dassanāya.
Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ:
Atha kho sakkassa devānamindassa etadahosi:
“Nay Thế Tôn ở tại chỗ nào, vị A La Hán, Chánh Ðẳng Giác?”
“kahaṁ nu kho bhagavā etarahi viharati arahaṁ sammāsambuddho”ti?
Thiên chủ Sakka thấy Thế Tôn trú tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá tại làng Bà La Môn tên Ambasandā, trên ngọn núi Vediya, phía Bắc ngôi làng trong hang Indasāla.
Addasā kho sakko devānamindo bhagavantaṁ magadhesu viharantaṁ pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṁ.
Thấy vậy, Thiên chủ Sakka nói với chư Thiên ở Tam thập tam thiên:
Disvāna deve tāvatiṁse āmantesi:
Này Quý vị, Thế Tôn trú ngụ tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasandā, trên ngọn núi Veidya, phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasāla.
“ayaṁ, mārisā, bhagavā magadhesu viharati, pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṁ.
Này quí vị, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.
Yadi pana, mārisā, mayaṁ taṁ bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkameyyāma arahantaṁ sammāsambuddhan”ti?
Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. Chư Thiên ở Tam thập tam thiên trả lời Thiên chủ Sakka.
“Evaṁ, bhaddantavā”ti kho devā tāvatiṁsā sakkassa devānamindassa paccassosuṁ.
Rồi Thiên chủ Sakka, nói với Pañcasikha (Ngũ Kế), con của Càn Thát Bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṁ gandhabbadevaputtaṁ āmantesi:
Này Khanh Pañcasikha, Thế Tôn nay trú tại Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn tên Ambasandā, trên ngọn núi Vediya phía Bắc ngôi làng, trong hang núi Indasāla.
“ayaṁ, tāta pañcasikha, bhagavā magadhesu viharati pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate indasālaguhāyaṁ.
Này Khanh Pañcasikha, chúng ta hãy đến chiêm ngưỡng Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác?
Yadi pana, tāta pañcasikha, mayaṁ taṁ bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkameyyāma arahantaṁ sammāsambuddhan”ti?
Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. Pañcasikha, con của Càn Thát Bà, vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đi theo Thiên chủ Sakka.
“Evaṁ, bhaddantavā”ti kho pañcasikho gandhabbadevaputto sakkassa devānamindassa paṭissutvā beluvapaṇḍuvīṇaṁ ādāya sakkassa devānamindassa anucariyaṁ upāgami.
Rồi Thiên chủ Sakka, với chư Thiên ở Tam thập tam thiên tháp tùng xung quanh, với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà đi trước—như người lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co lại cánh tay duỗi ra, biến mất ở cõi Tam thập tam thiên, hiện ra ở Magadha, phía Ðông thành Vương Xá, tại làng Bà La Môn Ambasandā và đứng trên núi Vediya, phía Bắc ngôi làng.
Atha kho sakko devānamindo devehi tāvatiṁsehi parivuto pañcasikhena gandhabbadevaputtena purakkhatoseyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṁ vā bāhaṁ pasāreyya pasāritaṁ vā bāhaṁ samiñjeyya; evameva—devesu tāvatiṁsesu antarahito magadhesu pācīnato rājagahassa ambasaṇḍā nāma brāhmaṇagāmo, tassuttarato vediyake pabbate paccuṭṭhāsi.
Lúc bấy giờ núi Vediya chói hào quang rực rỡ, ngôi làng Bà La Môn Ambasandā cũng vậy, đều nhờ thần lực chư Thiên.
Tena kho pana samayena vediyako pabbato atiriva obhāsajāto hoti ambasaṇḍā ca brāhmaṇagāmo yathā taṁ devānaṁ devānubhāvena.
Và dân chúng ở những làng xung quanh nói rằng:
Apissudaṁ parito gāmesu manussā evamāhaṁsu:
Núi Vediya hôm nay thật sự bị cháy, núi Veidya hôm nay thật sự có lửa đỏ rực, núi Vediya lại chói hào quang rực rỡ, làng Bà La Môn Ambasandā cũng vậy.
“ādittassu nāmajja vediyako pabbato jhāyatisu nāmajja vediyako pabbato jalatisu. Nāmajja vediyako pabbato. Kiṁsu nāmajja vediyako pabbato atiriva obhāsajāto ambasaṇḍā ca brāhmaṇagāmo”ti;
Và dân chúng lo âu, lông tóc dựng ngược.
saṁviggā lomahaṭṭhajātā ahesuṁ.
Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṁ gandhabbadevaputtaṁ āmantesi:
Này Khanh Pañcasikha, chư Như Lai thật khó lại gần đối với người như ta. Các Ngài nhập Thiền, hoan hỷ trong Thiền, và với mục đích ấy, an lặng tịnh cư.
“durupasaṅkamā kho, tāta pañcasikha, tathāgatā mādisena, jhāyī jhānaratā, tadantaraṁ paṭisallīnā.
Vậy Khanh Pañcasikha trước tiên làm cho Thế Tôn hoan hỷ, sau sự hoan hỷ do Khanh tác động, chúng ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác.
Yadi pana tvaṁ, tāta pañcasikha, bhagavantaṁ paṭhamaṁ pasādeyyāsi, tayā, tāta, paṭhamaṁ pasāditaṁ pacchā mayaṁ taṁ bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkameyyāma arahantaṁ sammāsambuddhan”ti.
Xin vâng, mong an lành đến với Ngài. Pañcasikha, con của Càn Thát Bà vâng lời Thiên chủ Sakka, cầm cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và đến tại hang núi Indasāla. Khi đến xong, Pañcasikha đứng lại một bên và suy nghĩ:
“Evaṁ, bhaddantavā”ti kho pañcasikho gandhabbadevaputto sakkassa devānamindassa paṭissutvā beluvapaṇḍuvīṇaṁ ādāya yena indasālaguhā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā:
“Ta đứng đây, không quá xa Thế Tôn, cũng không quá gần. Và tiếng sẽ được Ngài nghe”.
“ettāvatā me bhagavā neva atidūre bhavissati nāccāsanne, saddañca me sossatī”ti—ekamantaṁ aṭṭhāsi.
Bài Hát Của Pañcasikha
1. Pañcasikhagītagāthā
Ðứng một bên, Pañcasikha, con của Càn Thát Bà gảy cây đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục:
Ekamantaṁ ṭhito kho pañcasikho gandhabbadevaputto beluvapaṇḍuvīṇaṁ assāvesi, imā ca gāthā abhāsi buddhūpasañhitā dhammūpasañhitā saṅghūpasañhitā arahantūpasañhitā kāmūpasañhitā:
“Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Nguồn hạnh phúc của ta.
“Vande te pitaraṁ bhadde,
timbaruṁ sūriyavacchase;
Yena jātāsi kalyāṇī,
ānandajananī mama.
Như gió cho kẻ mệt,
Như nước cho kẻ khát;
Nàng, ánh sáng đời ta,
Như pháp bậc Ứng Cúng.
Vātova sedataṁ kanto,
pānīyaṁva pipāsato;
Aṅgīrasi piyāmesi,
dhammo arahatāmiva.
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Thức ăn cho kẻ đói;
Nàng như dòng nước mát,
Dập tắt lửa thiêu ta.
Āturasseva bhesajjaṁ,
bhojanaṁva jighacchato;
Parinibbāpaya maṁ bhadde,
jalantamiva vārinā.
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ sen mát;
Có cánh sen, nhụy sen;
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Sītodakaṁ pokkharaṇiṁ,
yuttaṁ kiñjakkhareṇunā;
Nāgo ghammābhitattova,
ogāhe te thanūdaraṁ.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn;
Ta không hiểu nguyên do,
Thân thon thả của nàng,
Làm cho ta điên đảo!
Cảm xúc ta điên cuồng,
Tâm ta bị thay đổi,
Không thể quay trở lại,
Như cá đã mắc câu.(*)
Accaṅkusova nāgova,
jitaṁ me tuttatomaraṁ;
Kāraṇaṁ nappajānāmi,
sammatto lakkhaṇūruyā!
Tayi gedhitacittosmi,
cittaṁ vipariṇāmitaṁ;
Paṭigantuṁ na sakkomi,
vaṅkaghastova ambujo.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Với cặp đùi quyến rủ!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền;
Thiện nữ hãy ôm ta,
Là những gì ta muốn.
Vāmūru saja maṁ bhadde,
saja maṁ mandalocane;
Palissaja maṁ kalyāṇi,
etaṁ me abhipatthitaṁ.
Mong ước thật nhỏ nhoi!
Ôi Hiền nữ tóc xoăn,
Nhưng nay đã tăng bội,
Như đồ chúng La Hán!
Appako vata me santo,
kāmo vellitakesiyā;
Anekabhāvo samuppādi,
arahanteva dakkhiṇā.
Mọi công đức ta làm,
Dâng bậc A-La-Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Yaṁ me atthi kataṁ puññaṁ,
arahantesu tādisu;
Taṁ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṁ vipaccataṁ.
Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Yaṁ me atthi kataṁ puññaṁ,
asmiṁ pathavimaṇḍale;
Taṁ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṁ vipaccataṁ.
Vị Thích tử tu thiền,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Ôi Suriya Vaccasa!
Sakyaputtova jhānena,
ekodi nipako sato;
Amataṁ muni jigīsāno,
tamahaṁ sūriyavacchase.
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng;
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược chung đôi với nàng,
Yathāpi muni nandeyya,
patvā sambodhimuttamaṁ;
Evaṁ nandeyyaṁ kalyāṇi,
missībhāvaṁ gato tayā.
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Chúa cõi tam thập tam,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Sakko ce me varaṁ dajjā,
tāvatiṁsānamissaro;
Tāhaṁ bhadde vareyyāhe,
evaṁ kāmo daḷho mama.
Như Sāla nở hoa,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!”(*)
Sālaṁva na ciraṁ phullaṁ,
pitaraṁ te sumedhase;
Vandamāno namassāmi,
yassāsetādisī pajā”ti.
Khi được nghe vậy, Thế Tôn nói với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà:
Evaṁ vutte, bhagavā pañcasikhaṁ gandhabbadevaputtaṁ etadavoca:
Này Pañcasikha, huyền âm của Ngươi khéo hòa điệu với giọng ca của Ngươi, và giọng ca của Ngươi khéo hòa điệu với huyền âm của Ngươi.
“saṁsandati kho te, pañcasikha, tantissaro gītassarena, gītassaro ca tantissarena;
Này Pañcasikha, do vậy huyền âm của Ngươi không thêm mầu sắc cho giọng ca, hay giọng ca của Ngươi không thêm màu sắc cho huyền âm của Ngươi.
na ca pana te, pañcasikha, tantissaro gītassaraṁ ativattati, gītassaro ca tantissaraṁ.
Này Pañcasikha, Ngươi học tại chỗ nào những bài kệ liên hệ đến Phật, Pháp, đến A La Hán, đến ái dục như vậy?
Kadā saṁyūḷhā pana te, pañcasikha, imā gāthā buddhūpasañhitā dhammūpasañhitā saṅghūpasañhitā arahantūpasañhitā kāmūpasañhitā”ti?
Bạch Thế Tôn, một thời Thế Tôn an trú ở Uruvelā, bên bờ sông Nerañjarā (Ni-liên-thiền), dưới gốc cây Ajapāla-Nigrodha, khi mới thành Chánh Ðẳng Giác.
“Ekamidaṁ, bhante, samayaṁ bhagavā uruvelāyaṁ viharati najjā nerañjarāya tīre ajapālanigrodhe paṭhamābhisambuddho.
Lúc bấy giờ, con yêu con gái của Timbaru, vua Càn Thát Bà, tên là Bhaddā với biệt hiệu Suriyavacchasā.
Tena kho panāhaṁ, bhante, samayena bhaddā nāma sūriyavacchasā timbaruno gandhabbarañño dhītā, tamabhikaṅkhāmi.
Nhưng bạch Thế Tôn, thiếu nữ lại yêu một người khác — tên là Sikhaḍḍī, con của Mātali người đánh xe.
Sā kho pana, bhante, bhaginī parakāminī hoti;— sikhaṇḍī nāma mātalissa saṅgāhakassa putto, tamabhikaṅkhati.
Bạch Thế Tôn, con không có phương tiện nào khác để chiếm được thiếu nữ.
Yato kho ahaṁ, bhante, taṁ bhaginiṁ nālatthaṁ kenaci pariyāyena.
Con cầm đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva, đến tại trú xá của Timbaru, vua Càn Thát Bà. Khi đến xong, con gảy đàn cầm bằng gỗ vàng Beluva và nói lên bài kệ này, liên hệ đến Phật, đến Pháp, đến A La Hán và đến ái dục —
Athāhaṁ beluvapaṇḍuvīṇaṁ ādāya yena timbaruno gandhabbarañño nivesanaṁ tenupasaṅkamiṁ; upasaṅkamitvā beluvapaṇḍuvīṇaṁ assāvesiṁ, imā ca gāthā abhāsiṁ buddhūpasañhitā dhammūpasañhitā saṅghūpasañhitā arahantūpasañhitā kāmūpasañhitā—
“Ôi Suriya Vaccasa!
Ta đảnh lễ Timbaru,
Bậc phụ thân của nàng,
Nguồn hạnh phúc của ta.
“Vande te pitaraṁ bhadde,
timbaruṁ sūriyavacchase;
Yena jātāsi kalyāṇī,
ānandajananī mama.
Như gió cho kẻ mệt,
Như nước cho kẻ khát;
Nàng, ánh sáng đời ta,
Như pháp bậc Ứng Cúng.
Vātova sedataṁ kanto,
pānīyaṁva pipāsato;
Aṅgīrasi piyāmesi,
dhammo arahatāmiva.
Như thuốc cho kẻ bệnh,
Thức ăn cho kẻ đói;
Nàng như dòng nước mát,
Dập tắt lửa thiêu ta.
Āturasseva bhesajjaṁ,
bhojanaṁva jighacchato;
Parinibbāpaya maṁ bhadde,
jalantamiva vārinā.
Như voi bị nắng thiêu,
Tẩm mình hồ sen mát;
Có cánh sen, nhụy sen;
Cũng vậy, ta muốn chìm,
Chìm sâu vào ngực nàng.
Sītodakaṁ pokkharaṇiṁ,
yuttaṁ kiñjakkhareṇunā;
Nāgo ghammābhitattova,
ogāhe te thanūdaraṁ.
Như voi bị xiềng xích,
Hất móc câu, gậy nhọn;
Ta không hiểu nguyên do,
Thân thon thả của nàng,
Làm cho ta điên đảo!
Cảm xúc ta điên cuồng,
Tâm ta bị thay đổi,
Không thể quay trở lại,
Như cá đã mắc câu.
Accaṅkusova nāgova,
jitaṁ me tuttatomaraṁ;
Kāraṇaṁ nappajānāmi,
sammatto lakkhaṇūruyā!
Tayi gedhitacittosmi,
cittaṁ vipariṇāmitaṁ;
Paṭigantuṁ na sakkomi,
vaṅkaghastova ambujo.
Hiền nữ hãy ôm ta,
Với cặp đùi quyến rủ!
Hãy ôm ta, nhìn ta,
Trong ánh mắt dịu hiền;
Thiện nữ hãy ôm ta,
Là những gì ta muốn.
Vāmūru saja maṁ bhadde,
saja maṁ mandalocane;
Palissaja maṁ kalyāṇi,
etaṁ me abhipatthitaṁ.
Mong ước thật nhỏ nhoi!
Ôi Hiền nữ tóc xoăn,
Nhưng nay đã tăng bội,
Như hội chúng La Hán!
Appako vata me santo,
kāmo vellitakesiyā;
Anekabhāvo samuppādi,
arahanteva dakkhiṇā.
Mọi công đức ta làm,
Dâng bậc A-La-Hán,
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả cho ta.
Yaṁ me atthi kataṁ puññaṁ,
arahantesu tādisu;
Taṁ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṁ vipaccataṁ.
Công đức khác của ta,
Ðã làm trên đời này!
Ôi Kiều nữ toàn thiện,
Nàng là quả của ta!
Yaṁ me atthi kataṁ puññaṁ,
asmiṁ pathavimaṇḍale;
Taṁ me sabbaṅgakalyāṇi,
tayā saddhiṁ vipaccataṁ.
Vị Thích tử tu thiền,
Nhứt tâm và giác tỉnh,
Tìm cầu đạo Bất tử,
Ôi Suriya Vaccasa!
Sakyaputtova jhānena,
ekodi nipako sato;
Amataṁ muni jigīsāno,
tamahaṁ sūriyavacchase.
Như người tu sung sướng,
Chứng Bồ Ðề tối thượng;
Kiều nữ, ta sung sướng,
Ðược chung đôi với nàng.
Yathāpi muni nandeyya,
patvā sambodhimuttamaṁ;
Evaṁ nandeyyaṁ kalyāṇi,
missībhāvaṁ gato tayā.
Nếu Thiên chủ Sakka,
Cho ta một ước nguyện,
Chúa cõi tam thập tam,
Ta ước nguyện được nàng,
Vì ta quá yêu nàng!
Sakko ce me varaṁ dajjā,
tāvatiṁsānamissaro;
Tāhaṁ bhadde vareyyāhe,
evaṁ kāmo daḷho mama.
Như Sāla nở hoa,
Tuệ Nữ, phụ thân nàng!
Ta sẽ đảnh lễ ngài,
Vì sanh nàng vẹn toàn!”
Sālaṁva na ciraṁ phullaṁ,
pitaraṁ te sumedhase;
Vandamāno namassāmi,
yassāsetādisī pajā”ti.
Bạch Thế Tôn, sau khi nghe nói vậy, Bhaddā Suriyavacchasā nói với con như sau:
Evaṁ vutte, bhante, bhaddā sūriyavacchasā maṁ etadavoca:
“Này Hiền giả, tôi chưa được thấy Thế Tôn tận mặt. Nhưng tôi có nghe đến Thế Tôn, khi tôi đến múa tại Thiện Pháp đường của chư Thiên ở Tam thập tam thiên.
‘na kho me, mārisa, so bhagavā sammukhā diṭṭho, api ca sutoyeva me so bhagavā devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sudhammāyaṁ sabhāyaṁ upanaccantiyā.
Vì Hiền giả đã tán dương Thế Tôn như vậy, vậy hôm nay chúng ta sẽ gặp nhau”.
Yato kho tvaṁ, mārisa, taṁ bhagavantaṁ kittesi, hotu no ajja samāgamo’ti.
Bạch Thế Tôn, rồi con được gặp nàng. Không phải hôm ấy, nhưng về sau.”
Soyeva no, bhante, tassā bhaginiyā saddhiṁ samāgamo ahosi. Na ca dāni tato pacchā”ti.
Đức Vua Trời Sakka Xuất Hiện
2. Sakkūpasaṅkama
Rồi Thiên chủ Sakka suy nghĩ như sau:
Atha kho sakkassa devānamindassa etadahosi:
“Pañcasikha, con của Càn Thát Bà hoan hỷ đàm luận với Thế Tôn. Và Thế Tôn đối với Pancasikha cũng vậy”.
“paṭisammodati pañcasikho gandhabbadevaputto bhagavatā, bhagavā ca pañcasikhenā”ti.
Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pañcasikha, con của Càn Thát Bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṁ gandhabbadevaputtaṁ āmantesi:
Này Khanh Pañcasikha, hãy thay mặt ta, đảnh lễ Thế Tôn và nói:
“abhivādehi me tvaṁ, tāta pañcasikha, bhagavantaṁ:
“Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn”.
‘sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī’”ti.
Xin vâng, mong an lành đến cho Ngài. Pañcasikha, con của Càn Thát Bà vâng theo lời dặn của Thiên chủ Sakka, đảnh lễ Thế Tôn và nói:
“Evaṁ, bhaddantavā”ti kho pañcasikho gandhabbadevaputto sakkassa devānamindassa paṭissutvā bhagavantaṁ abhivādeti:
Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng với đình thần và thuộc hạ, đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn.
“sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī”ti.
Này Pañcasikha, mong hạnh phúc đến với Thiên chủ Sakka, với các đình thần và các thuộc hạ!
“Evaṁ sukhī hotu, pañcasikha, sakko devānamindo sāmacco saparijano;
Chư Thiên, loài Người, Asurā, Nāgā, Gandhabbā, đều ao ước hạnh phúc. Các loại chúng sanh khác cũng vậy.
sukhakāmā hi devā manussā asurā nāgā gandhabbā ye caññe santi puthukāyā”ti.
Như vậy, các Như Lai chào đón thượng chúng.
Evañca pana tathāgatā evarūpe mahesakkhe yakkhe abhivadanti.
Ðược chào đón như vậy, Thiên chủ Sakka bước vào hang Indasāla của Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng một bên.
Abhivadito sakko devānamindo bhagavato indasālaguhaṁ pavisitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi.
Chư Thiên ở Tam thập tam thiên cũng bước vào hang Indasāla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên.
Devāpi tāvatiṁsā indasālaguhaṁ pavisitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhaṁsu.
Pañcasikha, con của Càn Thát Bà cũng bước vào hang Indasāla, đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên.
Pañcasikhopi gandhabbadevaputto indasālaguhaṁ pavisitvā bhagavantaṁ abhivādetvā ekamantaṁ aṭṭhāsi.
Lúc bấy giờ, trong hang Indasāla, những con đường gồ ghề được làm bằng phẳng, những khoảng chật hẹp được làm cho rộng rãi, trong hang tối tăm có hào quang chiếu sáng, đó là nhờ thần lực của chư Thiên.
Tena kho pana samayena indasālaguhā visamā santī samā samapādi, sambādhā santī urundā samapādi, andhakāro guhāyaṁ antaradhāyi, āloko udapādi yathā taṁ devānaṁ devānubhāvena.
Rồi Thế Tôn nói với Thiên chủ Sakka:
Atha kho bhagavā sakkaṁ devānamindaṁ etadavoca:
Thật là hy hữu, Ðại đức Kosiya! Thật là kỳ diệu, Ðại đức Kosiya, tuy có nhiều trách nhiệm phải gánh vác, có nhiều công tác phải làm, mà vẫn đến đây được!
“acchariyamidaṁ āyasmato kosiyassa, abbhutamidaṁ āyasmato kosiyassa tāva bahukiccassa bahukaraṇīyassa yadidaṁ idhāgamanan”ti.
Bạch Thế Tôn, đã từ lâu con muốn đến để yết kiến Thế Tôn, nhưng bị ngăn trở bởi các công việc này, công việc khác phải làm cho chư Thiên ở Tam thập tam thiên, và do vậy không thể đến yết kiến Thế Tôn được.
“Cirapaṭikāhaṁ, bhante, bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkamitukāmo; api ca devānaṁ tāvatiṁsānaṁ kehici kehici kiccakaraṇīyehi byāvaṭo; evāhaṁ nāsakkhiṁ bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkamituṁ.
Bạch Thế Tôn, một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī (Xá Vệ), tại cốc Salaḷā.
Ekamidaṁ, bhante, samayaṁ bhagavā sāvatthiyaṁ viharati salaḷāgārake.
Bạch Thế Tôn, rồi con đến Sāvatthī để yết kiến Thế Tôn.
Atha khvāhaṁ, bhante, sāvatthiṁ agamāsiṁ bhagavantaṁ dassanāya.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang ngồi nhập định và Bhūjati, vợ của Vessavaṇa đang đứng hầu Thế Tôn, đảnh lễ chắp tay.
Tena kho pana, bhante, samayena bhagavā aññatarena samādhinā nisinno hoti, bhūjati ca nāma vessavaṇassa mahārājassa paricārikā bhagavantaṁ paccupaṭṭhitā hoti, pañjalikā namassamānā tiṭṭhati.
Bạch Thế Tôn, rồi con nói với Bhūjati:
Atha khvāhaṁ, bhante, bhūjatiṁ etadavocaṁ:
Này Hiền tỷ, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa:
‘abhivādehi me tvaṁ, bhagini, bhagavantaṁ:
“Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka với đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn”.
“sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī”’ti.
Ðược nghe nói vậy, Bhūjati nói với con:
Evaṁ vutte, bhante, sā bhūjati maṁ etadavoca:
Thiện hữu, nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn.
‘akālo kho, mārisa, bhagavantaṁ dassanāya;
Thế Tôn đang yên lặng tịnh cư.
paṭisallīno bhagavā’ti.
Này Hiền tỷ, khi nào xuất định, hãy thay mặt ta đảnh lễ Thế Tôn và thưa:
‘Tena hi, bhagini, yadā bhagavā tamhā samādhimhā vuṭṭhito hoti, atha mama vacanena bhagavantaṁ abhivādehi:
“Bạch Thế Tôn, Thiên chủ Sakka cùng đình thần và thuộc hạ đầu diện tiếp tục đảnh lễ Thế Tôn”.
“sakko, bhante, devānamindo sāmacco saparijano bhagavato pāde sirasā vandatī”’ti.
Bạch Thế Tôn, không hiểu Bhūjati có thay mặt con đảnh lễ Thế Tôn không?
Kacci me sā, bhante, bhaginī bhagavantaṁ abhivādesi?
Thế Tôn có nhớ lời bà ấy nói không?
Sarati bhagavā tassā bhaginiyā vacanan”ti?
Này Thiên chủ, bà ấy có đảnh lễ Ta. Ta có nhớ lời bà ấy nói.
“Abhivādesi maṁ sā, devānaminda, bhaginī, sarāmahaṁ tassā bhaginiyā vacanaṁ.
Chính tiếng bánh xe của Ngài đã khiến Ta xuất định.
Api cāhaṁ āyasmato nemisaddena tamhā samādhimhā vuṭṭhito”ti.
Bạch Thế Tôn, có chư Thiên được sanh lên Tam thập tam thiên trước chúng con, chính chúng con tận mắt được nghe chư Thiên ấy nói như sau:
“Ye te, bhante, devā amhehi paṭhamataraṁ tāvatiṁsakāyaṁ upapannā, tesaṁ me sammukhā sutaṁ sammukhā paṭiggahitaṁ:
“Khi Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, Thiên giới được hưng thịnh và Asurā giới bị suy vong”.
‘yadā tathāgatā loke uppajjanti arahanto sammāsambuddhā, dibbā kāyā paripūrenti, hāyanti asurakāyā’ti.
Bạch Thế Tôn, chính con có thể thấy và xác chứng rằng khi nào Như Lai, bậc A La Hán, Chánh Ðẳng Giác xuất hiện ở đời, thì Thiên giới được hưng thịnh và Asurā giới bị suy vong.
Taṁ me idaṁ, bhante, sakkhidiṭṭhaṁ yato tathāgato loke uppanno arahaṁ sammāsambuddho, dibbā kāyā paripūrenti, hāyanti asurakāyāti.
Câu Chuyện Của Gopikā
2.1. Gopakavatthu
Bạch Thế Tôn ở đây, tại Kapilavatthu, có Thích nữ tên là Gopikā, có lòng tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, và gìn giữ đầy đủ giới luật.
Idheva, bhante, kapilavatthusmiṁ gopikā nāma sakyadhītā ahosi buddhe pasannā dhamme pasannā saṅghe pasannā sīlesu paripūrakārinī.
Thích nữ này, loại bỏ tâm niệm đàn bà, tu tập tâm niệm đàn ông, khi thân hoại mạng chung được sanh lên Thiên giới, thiện thú. Nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, sanh ra làm con của chúng con.
Sā itthittaṁ virājetvā purisattaṁ bhāvetvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapannā. Devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyataṁ amhākaṁ puttattaṁ ajjhupagatā.
Và ở đấy, nàng được gọi là Thiên tử Gopakā, Thiên tử Gopakā.
Tatrapi naṁ evaṁ jānanti: ‘gopako devaputto, gopako devaputto’ti.
Bạch Thế Tôn, lại có ba Tỷ Kheo khác sống phạm hạnh với Thế Tôn và sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng.
Aññepi, bhante, tayo bhikkhū bhagavati brahmacariyaṁ caritvā hīnaṁ gandhabbakāyaṁ upapannā.
Họ sống được bao vây thọ hưởng năm món dục tăng thịnh và thường hay đến hầu hạ săn sóc chúng con.
Te pañcahi kāmaguṇehi samappitā samaṅgībhūtā paricārayamānā amhākaṁ upaṭṭhānaṁ āgacchanti amhākaṁ pāricariyaṁ.
Chúng con được họ đến hầu hạ và săn sóc chúng con như vậy, Thiên tử Gopakā mới trách la họ như sau:
Te amhākaṁ upaṭṭhānaṁ āgate amhākaṁ pāricariyaṁ gopako devaputto paṭicodesi:
“Chư Thiện hữu, tai các Người ở đâu mà không nghe Pháp của Thế Tôn!
‘kutomukhā nāma tumhe, mārisā, tassa bhagavato dhammaṁ assuttha—
Chính ta xưa là đàn bà, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, gìn giữ giới luật, loại bỏ tâm niệm đàn bà, tu tập tâm niệm đàn ông, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, nhập chúng với chư Thiên ở Tam thập tam thiên, làm con của Thiên chủ Sakka.
ahañhi nāma itthikā samānā buddhe pasannā dhamme pasannā saṅghe pasannā sīlesu paripūrakārinī itthittaṁ virājetvā purisattaṁ bhāvetvā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapannā, devānaṁ tāvatiṁsānaṁ sahabyataṁ sakkassa devānamindassa puttattaṁ ajjhupagatā.
Họ gọi ta là:
Idhāpi maṁ evaṁ jānanti:
Thiên tử Gopakā.
“gopako devaputto gopako devaputto”ti.
Chư Thiện hữu, các Người tu hành phạm hạnh với Thế Tôn, được sanh vào Càn Thát Bà giới hạ đẳng.
Tumhe pana, mārisā, bhagavati brahmacariyaṁ caritvā hīnaṁ gandhabbakāyaṁ upapannā.
Thật là điều không mấy tốt đẹp, khi chúng con thấy những vị đồng môn lại phải sanh vào hạ đẳng Càn Thát Bà giới.
Duddiṭṭharūpaṁ vata bho addasāma, ye mayaṁ addasāma sahadhammike hīnaṁ gandhabbakāyaṁ upapanne’ti.
Bạch Thế Tôn, trong chư Thiên bị Thiên tử Gopakā trách mắng như vậy, hai vị Thiên, ngay trong hiện tại, chứng được chánh niệm và sanh làm phụ tá cho Phạm thiên. Còn một vị Thiên sống thọ hưởng dục lạc.
Tesaṁ, bhante, gopakena devaputtena paṭicoditānaṁ dve devā diṭṭheva dhamme satiṁ paṭilabhiṁsu kāyaṁ brahmapurohitaṁ, eko pana devo kāme ajjhāvasi.
‘Ta đệ tử pháp nhãn,
Tên gọi Gopikā;
Ta tin Phật và Pháp,
Ta hết lòng độ Tăng.
‘Upāsikā cakkhumato ahosiṁ,
Nāmampi mayhaṁ ahu “gopikā”ti;
Buddhe ca dhamme ca abhippasannā,
Saṅghañcupaṭṭhāsiṁ pasannacittā.
Nhờ giáo pháp toàn hảo,
Nay con trai Vua Sakka;
Tái sanh cõi tam thập tam,
Tên gọi Gopakā.
Tasseva buddhassa sudhammatāya,
Sakkassa puttomhi mahānubhāvo;
Mahājutīko tidivūpapanno,
Jānanti maṁ idhāpi “gopako”ti.
Nhìn các tỷ kheo ấy,
Hạ sanh Càn Thát Bà! (Gandhabba);
Trước ta sanh làm Người,
Họ đệ tử Cồ Đàm (Gotama).
Athaddasaṁ bhikkhavo diṭṭhapubbe,
Gandhabbakāyūpagate vasīne;
Imehi te gotamasāvakāse,
Ye ca mayaṁ pubbe manussabhūtā.
Ta cúng dường ẩm thực,
Hầu hạ trú xứ ta;
Mắt hiền giả ở đâu,
Không nắm giữ Pháp Phật.
Annena pānena upaṭṭhahimhā,
Pādūpasaṅgayha sake nivesane;
Kutomukhā nāma ime bhavanto,
Buddhassa dhammāni paṭiggahesuṁ.
Chánh pháp tự giác hiểu,
Bậc Pháp nhãn khéo giảng;
Ta chỉ hầu Quý vị,
Được nghe Pháp bậc Thánh.
Paccattaṁ veditabbo hi dhammo,
Sudesito cakkhumatānubuddho;
Ahañhi tumheva upāsamāno,
Sutvāna ariyāna subhāsitāni.
Nay con trai Vua Sakka,
Tái sanh cõi tam thập tam;
Các người hầu Bậc tối thắng,
Sống phạm hạnh tối thượng.
Sakkassa puttomhi mahānubhāvo,
Mahājutīko tidivūpapanno;
Tumhe pana seṭṭhamupāsamānā,
Anuttaraṁ brahmacariyaṁ caritvā.
Nay phải sanh cõi thấp,
Tái sanh không thích đáng;
Tiếc thay ta đã thấy,
Đồng đạo sanh cõi thấp.
Hīnaṁ kāyaṁ upapannā bhavanto,
Anānulomā bhavatūpapatti;
Duddiṭṭharūpaṁ vata addasāma,
Sahadhammike hīnakāyūpapanne.
Với thân Càn Thát Bà,
Phải hầu hạ chư Thiên;
Từ địa vị cư sĩ,
Ta thấy rõ khác biệt.
Gandhabbakāyūpagatā bhavanto,
Devānamāgacchatha pāricariyaṁ;
Agāre vasato mayhaṁ,
Imaṁ passa visesataṁ.
Trước bà, nay Thiên nam,
Ta sanh Thiên, hưởng dục’;
Đệ tử Cồ-Đàm trách,
Hiểu lời Gopakā,
Họ ưu phiền phát nguyện.
Itthī hutvā svajja pumomhi devo,
Dibbehi kāmehi samaṅgibhūto’;
Te coditā gotamasāvakena,
Saṁvegamāpādu samecca gopakaṁ.
‘Phải thăng tiến nỗ lực,
Không nô lệ cho ai;’
Hai trong ba vị này,
Bắt đầu hành tinh tấn,
Nhờ Gotama dạy.
‘Handa viyāyāma byāyāma,
Mā no mayaṁ parapessā ahumhā’;
Tesaṁ duve vīriyamārabhiṁsu,
Anussaraṁ gotamasāsanāni.
Chúng tẩy sạch tâm uế,
Thấy nguy hiểm dục vọng;
Vứt bỏ dục kiết sử,
Quỷ triền phược khó vượt.
Idheva cittāni virājayitvā,
Kāmesu ādīnavamaddasaṁsu;
Te kāmasaṁyojanabandhanāni,
Pāpimayogāni duraccayāni.
Như voi bỏ dây cương,
Các vị vượt Tam thiên;
Cùng Sakka, Pajāpati,
Hội chúng Thiện Pháp đường.
Nāgova sannāni guṇāni chetvā,
Deve tāvatiṁse atikkamiṁsu;
Saindā devā sapajāpatikā,
Sabbe sudhammāya sabhāyupaviṭṭhā.
Vượt quá vị đang ngồi,
Anh hùng ly dục cấu;
Thấy họ, Vāsava ưu phiền,
Giữa Thiên chúng, than rằng.
Tesaṁ nisinnānaṁ abhikkamiṁsu,
Vīrā virāgā virajaṁ karontā;
Te disvā saṁvegamakāsi vāsavo,
Devābhibhū devagaṇassa majjhe.
‘Xem chúng sinh hạ phẩm,
Nay vượt qua Tam thiên’;
Suy tư lời ưu phiền,
Gopakā nói Vāsava:
‘Imehi te hīnakāyūpapannā,
Deve tāvatiṁse abhikkamanti’;
Saṁvegajātassa vaco nisamma,
So gopako vāsavamajjhabhāsi.
‘Đức Phật ở nhân giới,
Được gọi là Thích Ca,
Ðã chinh phục dục vọng;
Chúng là con của Ngài,
Thất niệm khi mệnh chung,
Nhờ Ta lấy chánh niệm.’
‘Buddho janindatthi manussaloke,
Kāmābhibhū sakyamunīti ñāyati;
Tasseva te puttā satiyā vihīnā,
Coditā mayā te satimajjhalatthuṁ’.
Một trong ba vị ấy,
Mang thân Càn Thát Bà;
Hai vị hướng Chánh giác,
Bỏ Thiên giới, nhập thiền.’
Tiṇṇaṁ tesaṁ āvasinettha eko,
Gandhabbakāyūpagato vasīno;
Dve ca sambodhipathānusārino,
Devepi hīḷenti samāhitattā.
Giáo pháp giảng như vậy,
Ðừng đệ tử nào nghi;
Chúng ta đảnh lễ Phật,
Vị vượt khỏi bộc lưu,
Ðã diệt trừ nghi ngờ.
Etādisī dhammappakāsanettha,
Na tattha kiṅkaṅkhati koci sāvako;
Nitiṇṇaoghaṁ vicikicchachinnaṁ,
Buddhaṁ namassāma jinaṁ janindaṁ.
Chính ở đây, chứng pháp,
Tấn bước đạt thù thắng;
Hai vị đạt thắng vị,
Hơn phụ tá Phạm thiên.
Yaṁ te dhammaṁ idhaññāya,
visesaṁ ajjhagaṁsu te;
Kāyaṁ brahmapurohitaṁ,
duve tesaṁ visesagū.
Ôi Thiện hữu chúng tôi,
Ðến đây để chứng pháp;
Nếu Thế Tôn cho phép,
Chúng con hỏi Thế Tôn.”
Tassa dhammassa pattiyā,
āgatamhāsi mārisa;
Katāvakāsā bhagavatā,
pañhaṁ pucchemu mārisā”ti.
Rồi Thế Tôn suy nghĩ:
Atha kho bhagavato etadahosi:
“Ðã lâu, Sakka này sống đời trong sạch. Câu hỏi gì Sakka hỏi Ta, đều hỏi có lợi ích, không phải không lợi ích.
“dīgharattaṁ visuddho kho ayaṁ yakkho, yaṁ kiñci maṁ pañhaṁ pucchissati, sabbaṁ taṁ atthasañhitaṁyeva pucchissati, no anatthasañhitaṁ.
Câu hỏi gì hỏi Ta, Ta sẽ trả lời; và Sakka sẽ hiểu một cách mau chóng”.
Yañcassāhaṁ puṭṭho byākarissāmi, taṁ khippameva ājānissatī”ti.
Rồi Thế Tôn nói bài kệ sau đây với Thiên chủ Sakka:
Atha kho bhagavā sakkaṁ devānamindaṁ gāthāya ajjhabhāsi:
“Vāsava hãy hỏi Ta,
Những gì tâm Ngươi muốn;
Mỗi câu hỏi của Ngươi,
Ta làm Ngươi thỏa mãn.
“Puccha vāsava maṁ pañhaṁ,
yaṁ kiñci manasicchasi;
Tassa tasseva pañhassa,
ahaṁ antaṁ karomi te”ti.
Chấm dứt tụng phẩm một.
Paṭhamabhāṇavāro niṭṭhito.
Sau khi được phép, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn câu hỏi đầu tiên:
Katāvakāso sakko devānamindo bhagavatā imaṁ bhagavantaṁ paṭhamaṁ pañhaṁ apucchi:
Bạch Thế Tôn, do kiết sử gì, các loài Thiên, Nhân, Asurā, Nāgā, Càn Thát Bà, và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước:
“Kiṁsaṁyojanā nu kho, mārisa, devā manussā asurā nāgā gandhabbā ye caññe santi puthukāyā, te:
“Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù?
‘averā adaṇḍā asapattā abyāpajjā viharemu averino’ti iti ca nesaṁ hoti. Atha ca pana saverā sadaṇḍā sasapattā sabyāpajjā viharanti saverino”ti?
Ðó là hình thức câu hỏi thứ nhất, Thiên chủ Sakka hỏi Thế Tôn.
Itthaṁ sakko devānamindo bhagavantaṁ pañhaṁ apucchi.
Và Thế Tôn trả lời câu hỏi ấy như sau:
Tassa bhagavā pañhaṁ puṭṭho byākāsi:
Do tật đố và xan tham, các loài Thiên, Nhân Asurā, Nāgā, Càn Thát Bà và tất cả những loài khác, dân chúng ao ước:
“Issāmacchariyasaṁyojanā kho, devānaminda, devā manussā asurā nāgā gandhabbā ye caññe santi puthukāyā, te:
“Không hận thù, không đả thương, không thù nghịch, không ác ý, chúng ta sống với nhau không hận thù”. Thế mà với hận thù, với đả thương, với thù nghịch, với ác ý, họ sống với nhau trong hận thù.
‘averā adaṇḍā asapattā abyāpajjā viharemu averino’ti iti ca nesaṁ hoti. Atha ca pana saverā sadaṇḍā sasapattā sabyāpajjā viharanti saverino”ti.
Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời cho câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṁ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṁ puṭṭho byākāsi.
Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinandi anumodi:
Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṁ, bhagavā, evametaṁ, sugata.
Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con diệt tận, do dự của con tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṁ sutvā”ti.
Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ câu trả lời Thế Tôn, liền hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṁ uttari pañhaṁ apucchi:
Bạch Thế Tôn, tật đố, xan tham, do nhân duyên gì, do tập khởi gì, cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu?
“Issāmacchariyaṁ pana, mārisa, kiṁnidānaṁ kiṁsamudayaṁ kiṁjātikaṁ kiṁpabhavaṁ;
Cái gì có mặt thì tật đố, xan tham có mặt?
kismiṁ sati issāmacchariyaṁ hoti;
Cái gì không có mặt, thì tật đố xan tham không có mặt?”
kismiṁ asati issāmacchariyaṁ na hotī”ti?
“Này Thiên chủ, tật đố và xan tham do ưa ghét làm nhân duyên, do ưa ghét làm tập khởi, ưa ghét khiến chúng sanh khởi, ưa ghét khiến chúng hiện hữu.
“Issāmacchariyaṁ kho, devānaminda, piyāppiyanidānaṁ piyāppiyasamudayaṁ piyāppiyajātikaṁ piyāppiyapabhavaṁ;
Ưa ghét có mặt thì tật đố, xan tham có mặt.
piyāppiye sati issāmacchariyaṁ hoti,
Ưa ghét không có mặt thì tật đố, xan tham không có mặt.”
piyāppiye asati issāmacchariyaṁ na hotī”ti.
“Bạch Thế Tôn, ưa ghét do nhân duyên gì, do tập khởi gì?
“Piyāppiyaṁ pana, mārisa, kiṁnidānaṁ kiṁsamudayaṁ kiṁjātikaṁ kiṁpabhavaṁ;
Cái gì khiến chúng sanh khởi, cái gì khiến chúng hiện hữu, cái gì có mặt thì ưa ghét có mặt?
kismiṁ sati piyāppiyaṁ hoti;
Cái gì không có mặt thì ưa ghét không có mặt?”
kismiṁ asati piyāppiyaṁ na hotī”ti?
“Này Thiên chủ, ưa ghét do dục làm nhân duyên, do dục làm tập khởi, dục khiến chúng sanh khởi, dục khiến chúng hiện hữu.
“Piyāppiyaṁ kho, devānaminda, chandanidānaṁ chandasamudayaṁ chandajātikaṁ chandapabhavaṁ;
Dục có mặt thì ưa ghét có mặt;
chande sati piyāppiyaṁ hoti;
Dục không có mặt thì ưa ghét không có mặt.”
chande asati piyāppiyaṁ na hotī”ti.
“Bạch Thế Tôn, nhưng dục do nhân duyên gì, do tập khởi gì? Cái gì khiến dục sanh khởi, cái gì khiến dục hiện hữu?
“Chando pana, mārisa, kiṁnidāno kiṁsamudayo kiṁjātiko kiṁpabhavo;
Cái gì có mặt thì dục có mặt?
kismiṁ sati chando hoti;
Cái gì không có mặt thì dục không có mặt?”
kismiṁ asati chando na hotī”ti?
“Này Thiên chủ, dục do tầm làm nhân duyên, do tầm làm tập khởi; tầm khiến dục sanh khởi, tầm khiến dục hiện hữu.
“Chando kho, devānaminda, vitakkanidāno vitakkasamudayo vitakkajātiko vitakkapabhavo;
Tầm có mặt thì dục có mặt;
vitakke sati chando hoti;
tầm không có mặt thì dục không có mặt.”
vitakke asati chando na hotī”ti.
“Bạch Thế Tôn, tầm lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi? Cái gì khiến tầm sanh khởi, cái gì khiến tầm hiện hữu?
“Vitakko pana, mārisa, kiṁnidāno kiṁsamudayo kiṁjātiko kiṁpabhavo;
Cái gì có mặt thì tầm có mặt?
kismiṁ sati vitakko hoti;
Cái gì không có mặt thì tầm không có mặt?”
kismiṁ asati vitakko na hotī”ti?
“Này Thiên chủ, tầm lấy cái loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên, lấy các loại vọng tưởng hý luận làm tập khởi. Các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm sanh khởi, các loại vọng tưởng hý luận khiến tầm hiện hữu.
“Vitakko kho, devānaminda, papañcasaññāsaṅkhānidāno papañcasaññāsaṅkhāsamudayo papañcasaññāsaṅkhājātiko papañcasaññāsaṅkhāpabhavo;
Do các loại vọng tưởng hý luận có mặt thì tầm có mặt.
papañcasaññāsaṅkhāya sati vitakko hoti;
Do các loại vọng tưởng hý luận không có mặt thì tầm không có mặt”.
papañcasaññāsaṅkhāya asati vitakko na hotī”ti.
“Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như thế nào? Phải thành tựu con đường nào thích hợp và hướng dẫn diệt trừ các loại vọng tưởng hý luận?”
“Kathaṁ paṭipanno pana, mārisa, bhikkhu papañcasaññāsaṅkhānirodhasāruppagāminiṁ paṭipadaṁ paṭipanno hotī”ti?
Cảm Thọ Trong Thiền
2.2. Vedanākammaṭṭhāna
Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại: một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
“Somanassampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại: một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
Domanassampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại: một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa.
Upekkhampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại phải thân cận, một loại phải tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Somanassampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṁ vuttaṁ, kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Ở đây, loại hỷ nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā somanassaṁ
“Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thời hỷ ấy cần phải tránh xa.
‘imaṁ kho me somanassaṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpaṁ somanassaṁ na sevitabbaṁ.
Ở đây loại hỷ nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā somanassaṁ
“Khi tôi thân cận với hỷ này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thời hỷ ấy nên thân cận.
‘imaṁ kho me somanassaṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpaṁ somanassaṁ sevitabbaṁ.
Ở đây, có hỷ câu hữu với tầm, câu hữu với tứ; có hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại hỷ không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Tattha yañce savitakkaṁ savicāraṁ, yañce avitakkaṁ avicāraṁ, ye avitakke avicāre, te paṇītatare.
Này Thiên chủ, Ta nói hỷ có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Somanassampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti.
Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
Iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Này Thiên chủ, Ta nói ưu cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy?
Domanassampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṁ vuttaṁ, kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Ở đây, loại ưu nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā domanassaṁ
“Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thời ưu ấy cần phải tránh xa.
‘imaṁ kho me domanassaṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpaṁ domanassaṁ na sevitabbaṁ.
Ở đây, loại ưu nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā domanassaṁ
“Khi tôi thân cận với ưu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thời ưu ấy nên thân cận.
‘imaṁ kho me domanassaṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpaṁ domanassaṁ sevitabbaṁ.
Ở đây, có ưu câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại ưu không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Tattha yañce savitakkaṁ savicāraṁ, yañce avitakkaṁ avicāraṁ, ye avitakke avicāre, te paṇītatare.
Này Thiên chủ, Ta nói ưu là hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Domanassampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti
Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.
iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Này Thiên chủ, Ta nói xả cũng có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì, tuyên bố như vậy?
Upekkhampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṁ vuttaṁ, kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Ở đây, loại xả nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā upekkhaṁ
“Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thời xả ấy cần phải tránh xa.
‘imaṁ kho me upekkhaṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpā upekkhā na sevitabbā.
Ở đây, loại xả nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā upekkhaṁ
“Khi tôi thân cận với xả này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thời xả ấy nên thân cận.
‘imaṁ kho me upekkhaṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpā upekkhā sevitabbā.
Ở đây, có xả câu hữu với tầm, câu hữu với tứ, có xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ. Các loại xả không câu hữu với tầm, không câu hữu với tứ thì thù thắng hơn.
Tattha yañce savitakkaṁ savicāraṁ, yañce avitakkaṁ avicāraṁ, ye avitakke avicāre, te paṇītatare.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng xả có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Upekkhampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi, asevitabbampīti
Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải chứng đạt như vậy, phải thành tựu con đường như vậy, mới thích hợp và hướng dẫn đến sự diệt trừ các vọng tưởng hý luận.
Evaṁ paṭipanno kho, devānaminda, bhikkhu papañcasaññāsaṅkhānirodhasāruppagāminiṁ paṭipadaṁ paṭipanno hotī”ti.
Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṁ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṁ puṭṭho byākāsi.
Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinandi anumodi:
“Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṁ, bhagavā, evametaṁ, sugata.
Khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con được diệt tận, do dự của con được tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṁ sutvā”ti.
Biệt Giải Thoát Luật Nghi
2.3. Pātimokkhasaṁvara
Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ câu trả lời của Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṁ uttari pañhaṁ apucchi:
Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như thế nào?
“Kathaṁ paṭipanno pana, mārisa, bhikkhu pātimokkhasaṁvarāya paṭipanno hotī”ti?
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại: Một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
“Kāyasamācārampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại: Một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Vacīsamācārampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại: Một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Pariyesanaṁpāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại, một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Kāyasamācārampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi sevitabbampi asevitabbampīti iti kho panetaṁ vuttaṁ, kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā kāyasamācāraṁ
“Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thì thân hành ấy cần phải tránh xa.
‘imaṁ kho me kāyasamācāraṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpo kāyasamācāro na sevitabbo.
Ở đây, loại thân hành nào có thể biết được:
Tattha yaṁ jaññā kāyasamācāraṁ
“Khi tôi thân cận với thân hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thì thân hành ấy cần phải thân cận.
‘imaṁ kho me kāyasamācāraṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpo kāyasamācāro sevitabbo.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng thân hành có hai loại—một loại cần thân cận, một loại cần tránh xa.
Kāyasamācārampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti
Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy?
iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Vacīsamācārampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṁ vuttaṁ, kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thì khẩu hành ấy phải tránh xa.
Tattha yaṁ jaññā vacīsamācāraṁ ‘imaṁ kho me vacīsamācāraṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpo vacīsamācāro na sevitabbo.
Ở đây, loại khẩu hành nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với khẩu hành này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thì khẩu hành ấy cần phải thân cận.
Tattha yaṁ jaññā vacīsamācāraṁ ‘imaṁ kho me vacīsamācāraṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpo vacīsamācāro sevitabbo.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng khẩu hành có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Vacīsamācārampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti
Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy, là do nhân duyên như vậy.
iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu cũng có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa. Lời tuyên bố là như vậy. Do nhân duyên gì tuyên bố như vậy?
Pariyesanaṁpāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti iti kho panetaṁ vuttaṁ, kiñcetaṁ paṭicca vuttaṁ?
Ở đây loại tầm cầu nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận với tầm cầu này, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm”, thì loại tầm cầu ấy cần phải tránh xa.
Tattha yaṁ jaññā pariyesanaṁ ‘imaṁ kho me pariyesanaṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyantī’ti, evarūpā pariyesanā na sevitabbā.
Ở đây, loại tầm cầu nào có thể biết được: “Khi tôi thân cận loại tầm cầu này, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng”, thì loại tầm cầu ấy nên thân cận.
Tattha yaṁ jaññā pariyesanaṁ ‘imaṁ kho me pariyesanaṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhantī’ti, evarūpā pariyesanā sevitabbā.
Này Thiên chủ, Ta nói rằng tầm cầu có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Pariyesanaṁpāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampīti
Sở dĩ có lời tuyên bố như vậy là do nhân duyên như vậy.
iti yaṁ taṁ vuttaṁ, idametaṁ paṭicca vuttaṁ.
Này Thiên chủ, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như vậy, phải thành tựu biệt giải thoát luật nghi như vậy!
Evaṁ paṭipanno kho, devānaminda, bhikkhu pātimokkhasaṁvarāya paṭipanno hotī”ti.
Ðó là hình thức Thế Tôn trả lời câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṁ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṁ puṭṭho byākāsi.
Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinandi anumodi:
Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṁ, bhagavā, evametaṁ, sugata.
Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṁ sutvā”ti.
Hộ Trì Các Căn
2.4. Indriyasaṁvara
Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn liền hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṁ uttari pañhaṁ apucchi:
Bạch Thế Tôn, vị Tỷ Kheo phải thành tựu như thế nào, phải thành tựu hộ trì các căn như thế nào?
“Kathaṁ paṭipanno pana, mārisa, bhikkhu indriyasaṁvarāya paṭipanno hotī”ti?
Này Thiên chủ, sắc do mắt phân biệt, ta nói rằng có hai loại: một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
“Cakkhuviññeyyaṁ rūpampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, tiếng do tai phân biệt…một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Sotaviññeyyaṁ saddampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
hương do mũi phân biệt…một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Ghānaviññeyyaṁ gandhampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
vị do lưỡi phân biệt…một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Jivhāviññeyyaṁ rasampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
xúc do thân phân biệt…một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.
Kāyaviññeyyaṁ phoṭṭhabbampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampi.
Này Thiên chủ, pháp do ý phân biệt, Ta nói rằng có hai loại—một loại nên thân cận, một loại nên tránh xa.”
Manoviññeyyaṁ dhammampāhaṁ, devānaminda, duvidhena vadāmi—sevitabbampi, asevitabbampī”ti.
Ðược nghe như vậy, Thiên chủ Sakka bạch Thế Tôn:
Evaṁ vutte, sakko devānamindo bhagavantaṁ etadavoca:
Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt được con hiểu một cách rộng rãi:
“Imassa kho ahaṁ, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṁ vitthārena atthaṁ ājānāmi.
Bạch Thế Tôn, loại sắc do mắt phân biệt, khi con thân cận mà bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên tránh xa
Yathārūpaṁ, bhante, cakkhuviññeyyaṁ rūpaṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, evarūpaṁ cakkhuviññeyyaṁ rūpaṁ na sevitabbaṁ.
Bạch Thế Tôn, loại sắc nào do mắt phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại sắc do mắt phân biệt ấy nên thân cận.
Yathārūpañca kho, bhante, cakkhuviññeyyaṁ rūpaṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti, evarūpaṁ cakkhuviññeyyaṁ rūpaṁ sevitabbaṁ.
Bạch Thế Tôn, loại tiếng nào do tai phân biệt…
Yathārūpañca kho, bhante, sotaviññeyyaṁ saddaṁ sevato …pe…
loại hương nào do mũi phân biệt…
ghānaviññeyyaṁ gandhaṁ sevato …
loại vị nào do lưỡi phân biệt…
jivhāviññeyyaṁ rasaṁ sevato …
loại xúc nào do thân phân biệt…
kāyaviññeyyaṁ phoṭṭhabbaṁ sevato …
loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp tăng trưởng, thiện pháp suy giảm, thời loại pháp ấy nên tránh xa.
manoviññeyyaṁ dhammaṁ sevato akusalā dhammā abhivaḍḍhanti, kusalā dhammā parihāyanti, evarūpo manoviññeyyo dhammo na sevitabbo.
Bạch Thế Tôn, loại pháp nào do ý phân biệt, khi con thân cận, bất thiện pháp suy giảm, thiện pháp tăng trưởng, thời loại pháp ấy nên thân cận.
Yathārūpañca kho, bhante, manoviññeyyaṁ dhammaṁ sevato akusalā dhammā parihāyanti, kusalā dhammā abhivaḍḍhanti, evarūpo manoviññeyyo dhammo sevitabbo.
Bạch Thế Tôn, vấn đề Thế Tôn nói một cách tóm tắt, được con hiểu một cách rộng rãi.
Imassa kho me, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṁ vitthārena atthaṁ ājānato
Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ của con tiêu tan, do dự của con diệt tận.
tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṁ sutvā”ti.
Như vậy sau khi hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn, Thiên chủ Sakka lại hỏi câu hỏi tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṁ uttari pañhaṁ apucchi:
Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn đều đồng một tư tưởng, đồng một giới hạnh, đồng một mong cầu, đồng một chí hướng?
“Sabbeva nu kho, mārisa, samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti?
Này Thiên chủ, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng!
“Na kho, devānaminda, sabbe samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti.
Bạch Thế Tôn, vì sao cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một giới hạnh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng?
“Kasmā pana, mārisa, na sabbe samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti?
Này Thiên chủ, thế giới này gồm có nhiều loại giới, nhiều giới sai biệt.
“Anekadhātu nānādhātu kho, devānaminda, loko.
Trong thế giới gồm có nhiều loại giới và nhiều giới sai biệt này, các loại hữu tình tự nhiên thiên chấp một loại giới nào, và khi đã thiên chấp, trở thành Kiên trì, cố thủ, với định kiến:
Tasmiṁ anekadhātunānādhātusmiṁ loke yaṁ yadeva sattā dhātuṁ abhinivisanti, taṁ tadeva thāmasā parāmāsā abhinivissa voharanti:
“Ðây là sự thật, ngoài ra toàn là si mê”.
‘idameva saccaṁ moghamaññan’ti.
Do vậy, tất cả Sa Môn, Bà La Môn không đồng một tư tưởng, không đồng một giới hạnh, không đồng một cứu cánh, không đồng một mong cầu, không đồng một chí hướng.
Tasmā na sabbe samaṇabrāhmaṇā ekantavādā ekantasīlā ekantachandā ekantaajjhosānā”ti.
Bạch Thế Tôn, có phải tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn đều đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích?
“Sabbeva nu kho, mārisa, samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti?
Này Thiên chủ, tất cả vị Sa Môn, Bà La Môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích.
“Na kho, devānaminda, sabbe samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti.
Bạch Thế Tôn, vì sao tất cả Sa môn, Bà la môn, không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích?
“Kasmā pana, mārisa, na sabbe samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti?
Này Thiên chủ, chỉ những vị Sa môn Bà la môn nào đã giải thoát tham ái, những vị ấy mới đồng một cứu cánh, đồng một an ổn, đồng một phạm hạnh, đồng một mục đích.
“Ye kho, devānaminda, bhikkhū taṇhāsaṅkhayavimuttā te accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā.
Do vậy, tất cả vị Sa môn, Bà la môn không đồng một cứu cánh, không đồng một an ổn, không đồng một phạm hạnh, không đồng một mục đích.
Tasmā na sabbe samaṇabrāhmaṇā accantaniṭṭhā accantayogakkhemī accantabrahmacārī accantapariyosānā”ti.
Ðó là hình thức câu trả lời Thế Tôn cho câu hỏi Thiên chủ Sakka.
Itthaṁ bhagavā sakkassa devānamindassa pañhaṁ puṭṭho byākāsi.
Sung sướng, Thiên chủ Sakka hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn và nói:
Attamano sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinandi anumodi:
Như vậy là phải, bạch Thế Tôn! Như vậy là phải, bạch Thiện Thệ!
“evametaṁ, bhagavā, evametaṁ, sugata.
Sau khi nghe Thế Tôn trả lời câu hỏi, nghi ngờ con được diệt tận, do dự con được tiêu tan.
Tiṇṇā mettha kaṅkhā vigatā kathaṅkathā bhagavato pañhaveyyākaraṇaṁ sutvā”ti.
Thiên chủ Sakka, sau khi hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn liền hỏi câu tiếp:
Itiha sakko devānamindo bhagavato bhāsitaṁ abhinanditvā anumoditvā bhagavantaṁ etadavoca:
Bạch Thế Tôn, tham ái là bệnh tật, tham ái là mụn nhọt, tham ái là mũi tên, tham ái dắt dẫn con người tái sanh đời này, đời khác,
“Ejā, bhante, rogo, ejā gaṇḍo, ejā sallaṁ, ejā imaṁ purisaṁ parikaḍḍhati tassa tasseva bhavassa abhinibbattiyā.
khiến con người khi cao, khi thấp.
Tasmā ayaṁ puriso uccāvacamāpajjati.
Bạch Thế Tôn, trong khi các Sa môn, Bà la môn khác ngoài giáo phái của Ngài không cho con dịp để hỏi những câu hỏi, thời Thế Tôn lại trả lời những câu hỏi ấy cho con,
Yesāhaṁ, bhante, pañhānaṁ ito bahiddhā aññesu samaṇabrāhmaṇesu okāsakammampi nālatthaṁ, te me bhagavatā byākatā.
giảng giải rất lâu cho con, khiến mũi tên nghi ngờ, do dự của con được Thế Tôn rút nhổ đi.
Dīgharattānusayitañca pana me vicikicchākathaṅkathāsallaṁ, tañca bhagavatā abbuḷhan”ti.
Này Thiên chủ, Ngươi có biết những câu hỏi ấy cũng được Ngươi hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác không?
“Abhijānāsi no tvaṁ, devānaminda, ime pañhe aññe samaṇabrāhmaṇe pucchitā”ti?
Bạch Thế Tôn, con được biết những câu hỏi ấy cũng được con hỏi các vị Sa môn, Bà la môn khác.
“Abhijānāmahaṁ, bhante, ime pañhe aññe samaṇabrāhmaṇe pucchitā”ti.
Này Thiên chủ, những vị ấy trả lời với Ngươi như thế nào, nếu không gì trở ngại hãy nói cho ta biết.
“Yathā kathaṁ pana te, devānaminda, byākaṁsu? Sace te agaru bhāsassū”ti.
Bạch Thế Tôn, không gì trở ngại cho con, khi Thế Tôn ngồi nghe hay những vị như Thế Tôn.
“Na kho me, bhante, garu yatthassa bhagavā nisinno bhagavantarūpo vā”ti.
Này Thiên chủ, vậy Ngươi hãy nói đi.
“Tena hi, devānaminda, bhāsassū”ti.
Bạch Thế Tôn, những vị Sa môn, Bà la môn mà con nghĩ là những vị sống trong rừng an tịnh, xa vắng, con đi đến những vị ấy và hỏi những câu hỏi ấy. Các vị này không trả lời cho con, không trả lời lại hỏi ngược con:
“Yesvāhaṁ, bhante, maññāmi samaṇabrāhmaṇā āraññikā pantasenāsanāti, tyāhaṁ upasaṅkamitvā ime pañhe pucchāmi, te mayā puṭṭhā na sampāyanti, asampāyantā mamaṁyeva paṭipucchanti:
“Tôn giả tên gì?”
‘ko nāmo āyasmā’ti?
Ðược hỏi vậy con trả lời:
Tesāhaṁ puṭṭho byākaromi:
“Chư Hiền giả, tên là Thiên chủ Sakka.”
‘ahaṁ kho, mārisa, sakko devānamindo’ti.
Rồi những vị ấy lại hỏi thêm con câu nữa:
Te mamaṁyeva uttari paṭipucchanti:
“Do công việc gì Tôn giả Thiên chủ lại đến chỗ này?”
‘kiṁ panāyasmā, devānaminda, kammaṁ katvā imaṁ ṭhānaṁ patto’ti?
Con liền giảng cho những vị ấy Chánh pháp như con đã được nghe và đã được học.
Tesāhaṁ yathāsutaṁ yathāpariyattaṁ dhammaṁ desemi.
Chỉ được từng ấy, các vị hoan hỷ và nói:
Te tāvatakeneva attamanā honti:
“Chúng tôi đã được thấy Thiên chủ Sakka. Những điều gì chúng tôi hỏi, vị ấy đều trả lời cho chúng tôi.”
‘sakko ca no devānamindo diṭṭho, yañca no apucchimhā, tañca no byākāsī’ti.
Không những vậy, các vị này trở thành đệ tử của con, chớ không phải con là đệ tử của các vị ấy.
Te aññadatthu mamaṁyeva sāvakā sampajjanti, na cāhaṁ tesaṁ.
Bạch Thế Tôn, nhưng con là đệ tử của Thế Tôn, đã chứng Dự lưu, không còn bị rơi vào đọa xứ, chắc chắn sẽ được giác ngộ.
Ahaṁ kho pana, bhante, bhagavato sāvako sotāpanno avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo”ti.
Hỷ Lạc
2.5. Somanassapaṭilābhakathā
Này Thiên chủ, như thế nào, Ngươi biết được trước kia không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?
“Abhijānāsi no tvaṁ, devānaminda, ito pubbe evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhan”ti?
Bạch Thế Tôn, trước kia con không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được an lạc như vậy.
“Abhijānāmahaṁ, bhante, ito pubbe evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhan”ti.
Này Thiên chủ, như thế nào, Ngươi biết được trước kia không bao giờ có sự thoải mái như vậy, có được sự hỷ lạc như vậy?
“Yathā kathaṁ pana tvaṁ, devānaminda, abhijānāsi ito pubbe evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhan”ti?
Bạch Thế Tôn, thuở xưa, một trận chiến tranh xẩy ra giữa chư Thiên và các vị Asurā.
“Bhūtapubbaṁ, bhante, devāsurasaṅgāmo samupabyūḷho ahosi.
Bạch Thế Tôn, trong trận chiến tranh này, chư Thiên thắng trận, các loài Asurā bại trận.
Tasmiṁ kho pana, bhante, saṅgāme devā jiniṁsu, asurā parājayiṁsu.
Bạch Thế Tôn sau khi thắng trận, con là người thắng trận, con suy nghĩ:
Tassa mayhaṁ, bhante, taṁ saṅgāmaṁ abhivijinitvā vijitasaṅgāmassa etadahosi:
“Nay mật ngọt của chư Thiên và mật ngọt của Asurā, cả hai loại mật ngọt, chư Thiên sẽ được nếm.”
‘yā ceva dāni dibbā ojā yā ca asurā ojā, ubhayametaṁ devā paribhuñjissantī’ti.
Bạch Thế Tôn, thoải mái ấy, hỷ lạc ấy do gậy trượng đem lại, do đao kiếm đem lại, không đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.
So kho pana me, bhante, vedapaṭilābho somanassapaṭilābho sadaṇḍāvacaro sasatthāvacaro na nibbidāya na virāgāya na nirodhāya na upasamāya na abhiññāya na sambodhāya na nibbānāya saṁvattati.
Bạch Thế Tôn, thoải mái này, hỷ lạc này nhờ nghe Chánh pháp Thế Tôn đem lại, không do gậy trượng, không do đao kiếm, sẽ đưa đến yểm ly, ly dục, tịch diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết bàn.
Yo kho pana me ayaṁ, bhante, bhagavato dhammaṁ sutvā vedapaṭilābho somanassapaṭilābho, so adaṇḍāvacaro asatthāvacaro ekantanibbidāya virāgāya nirodhāya upasamāya abhiññāya sambodhāya nibbānāya saṁvattatī”ti.
Này Thiên chủ, khi Ngươi cảm thọ sự thoải mái và hỷ lạc như vậy, Ngươi cảm thấy những lợi ích gì?
“Kiṁ pana tvaṁ, devānaminda, atthavasaṁ sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedesī”ti?
Bạch Thế Tôn, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy, con cảm thấy có sáu lợi ích như sau:
“Cha kho ahaṁ, bhante, atthavase sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Nay con đứng tại đây,
Với thân một vị Thiên;
Con thấy được tái sanh,
Bạch Ngài, hãy biết vậy.
Idheva tiṭṭhamānassa,
devabhūtassa me sato;
Punarāyu ca me laddho,
evaṁ jānāhi mārisa.
Bạch Thế Tôn đó là điều lợi thứ nhất con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái hỷ lạc như vậy.
Imaṁ kho ahaṁ, bhante, paṭhamaṁ atthavasaṁ sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Sau khi chết con bỏ,
Thân chư Thiên, phi nhân;
Không muội lược, con đi,
Ðến bào thai con thích.
Cutāhaṁ diviyā kāyā,
āyuṁ hitvā amānusaṁ;
Amūḷho gabbhamessāmi,
yattha me ramatī mano.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ hai, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṁ kho ahaṁ, bhante, dutiyaṁ atthavasaṁ sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Câu hỏi được đáp rõ,
Hoan hỷ trong Chánh giáo;
Con sống với Chánh trí,
Giác tỉnh và Chánh niệm.
Svāhaṁ amūḷhapaññassa,
viharaṁ sāsane rato;
Ñāyena viharissāmi,
sampajāno paṭissato.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi thứ ba, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṁ kho ahaṁ, bhante, tatiyaṁ atthavasaṁ sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Con sống với Chánh trí,
Sẽ được quả Bồ đề;
Sống làm vị Chánh giác,
Ðời này đời cuối cùng.
Ñāyena me carato ca,
sambodhi ce bhavissati;
Aññātā viharissāmi,
sveva anto bhavissati.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ tư, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṁ kho ahaṁ, bhante, catutthaṁ atthavasaṁ sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Chết từ thân con Người,
Con từ bỏ thân Người;
Con sẽ thành chư Thiên,
Trong Thiên giới vô thượng.
Cutāhaṁ mānusā kāyā,
āyuṁ hitvāna mānusaṁ;
Puna devo bhavissāmi,
devalokamhi uttamo.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ năm, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái, và hỷ lạc như vậy.
Imaṁ kho ahaṁ, bhante, pañcamaṁ atthavasaṁ sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Thù thắng hơn chư Thiên,
Với danh xưng tối thượng;
Sống đời sống cuối cùng,
Như vậy nơi an trú.
Te paṇītatarā devā,
akaniṭṭhā yasassino;
Antime vattamānamhi,
so nivāso bhavissati.
Bạch Thế Tôn, đó là điều lợi ích thứ sáu, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Imaṁ kho ahaṁ, bhante, chaṭṭhaṁ atthavasaṁ sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Bạch Thế Tôn, đó là sáu lợi ích, con cảm thấy, khi con cảm thọ thoải mái và hỷ lạc như vậy.
Ime kho ahaṁ, bhante, cha atthavase sampassamāno evarūpaṁ vedapaṭilābhaṁ somanassapaṭilābhaṁ pavedemi.
Mong muốn không thoả mãn,
Nghi ngờ và do dự;
Thời gian khá lâu dài,
Con tìm cầu Như Lai,
Apariyositasaṅkappo,
vicikiccho kathaṅkathī;
Vicariṁ dīghamaddhānaṁ,
anvesanto tathāgataṁ.
Con nghĩ các Sa môn,
Sống một mình cô độc;
Là bậc Chánh Ðẳng Giác,
Vì vậy con tìm gặp.
Yassu maññāmi samaṇe,
pavivittavihārino;
Sambuddhā iti maññāno,
gacchāmi te upāsituṁ.
“Làm thế nào thành công?
Làm thế nào thất bại?
Ðược hỏi câu hỏi vậy?
Không thể chỉ hướng đường.
‘Kathaṁ ārādhanā hoti,
kathaṁ hoti virādhanā’;
Iti puṭṭhā na sampāyanti,
magge paṭipadāsu ca.
Khi họ đã đoán ra,
Biết con là Sakka;
Họ liền gạn hỏi con,
‘Ðến đây có việc gì?’.
Tyassu yadā maṁ jānanti,
sakko devānamāgato;
Tyassu mameva pucchanti,
‘kiṁ katvā pāpuṇī idaṁ’.
Con liền giảng Chánh pháp,
Con cho họ được nghe;
Hoan hỷ, họ bèn nói,
“Vāsava làm họ thấy!”
Tesaṁ yathāsutaṁ dhammaṁ,
desayāmi jane sutaṁ;
Tena attamanā honti,
‘diṭṭho no vāsavoti ca’.
Khi con được thấy Phật,
Nghi ngờ đều tiêu tan;
Nay con sống vô úy,
Hầu hạ bậc Chánh Giác.
Yadā ca buddhamaddakkhiṁ,
vicikicchāvitāraṇaṁ;
Somhi vītabhayo ajja,
sambuddhaṁ payirupāsiya.
Mũi tên độc tham ái,
Ðấng Chánh Giác nhổ lên;
Con đảnh lễ Ðại Hùng,
Đức Phật, bậc thân tộc mặt trời.
Taṇhāsallassa hantāraṁ,
buddhaṁ appaṭipuggalaṁ;
Ahaṁ vande mahāvīraṁ,
buddhamādiccabandhunaṁ.
Tôn giả như Phạm thiên,
Nay con đảnh lễ Ngài;
Nay con kính lễ Ngài,
Chúng con đảnh lễ Ngài.
Yaṁ karomasi brahmuno,
samaṁ devehi mārisa;
Tadajja tuyhaṁ kassāma,
handa sāmaṁ karoma te.
Ngài là bậc Chánh Giác,
Bậc Ðạo Sư vô thượng;
Trong đời kể chư Thiên,
Không ai so sánh Ngài!”
Tvameva asi sambuddho,
tuvaṁ satthā anuttaro;
Sadevakasmiṁ lokasmiṁ,
natthi te paṭipuggalo”ti.
Rồi Thiên chủ Sakka nói với Pañcasikha, con của Càn thát bà:
Atha kho sakko devānamindo pañcasikhaṁ gandhabbaputtaṁ āmantesi:
Này Khanh Pancasikha, Ngươi đã giúp ta nhiều việc. Trước nhờ Ngươi làm Thế Tôn bằng lòng,
“bahūpakāro kho mesi tvaṁ, tāta pañcasikha, yaṁ tvaṁ bhagavantaṁ paṭhamaṁ pasādesi.
sau khi Ngươi làm cho bằng lòng, ta mới đến yết kiến Thế Tôn, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác.
Tayā, tāta, paṭhamaṁ pasāditaṁ pacchā mayaṁ taṁ bhagavantaṁ dassanāya upasaṅkamimhā arahantaṁ sammāsambuddhaṁ.
Ta sẽ đóng vai trò thân phụ cho Ngươi, Ngươi sẽ là Vua loài Càn thát bà. Ta sẽ cho Ngươi Bhaddā Suriyavaccasā, người mà ngươi ao ước.
Pettike vā ṭhāne ṭhapayissāmi, gandhabbarājā bhavissasi, bhaddañca te sūriyavacchasaṁ dammi, sā hi te abhipatthitā”ti.
Rồi Thiên chủ Sakka, lấy tay sờ đất, đọc lên ba lần bài kệ cảm hứng như sau:
Atha kho sakko devānamindo pāṇinā pathaviṁ parāmasitvā tikkhattuṁ udānaṁ udānesi:
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn, Bậc La hán, Chánh Giác!
“Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn, Bậc La hán, Chánh Giác!
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.
Ðảnh lễ đấng Thế Tôn, Bậc La hán, Chánh Giác!”
Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassā”ti.
Khi lời tuyên thuyết này được tụng đọc, pháp nhãn thanh tịnh vô cấu, khởi lên cho Thiên chủ Sakka:
Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṁ bhaññamāne sakkassa devānamindassa virajaṁ vītamalaṁ dhammacakkhuṁ udapādi:
“Phàm pháp gì tập sanh, pháp ấy sẽ bị hoại diệt.”
“yaṁ kiñci samudayadhammaṁ sabbaṁ taṁ nirodhadhamman”ti.
Ngoài ra, 80.000 chư Thiên cũng chứng quả tương tợ.
Aññesañca asītiyā devatāsahassānaṁ;
Ðó là những câu hỏi, Thiên chủ Sakka được mời hỏi và được Thế Tôn trả lời.
iti ye sakkena devānamindena ajjhiṭṭhapañhā puṭṭhā, te bhagavatā byākatā.
Do vậy, cuộc đối thoại này cũng được gọi là Những Câu Hỏi Của Sakka (Ðế thích sở vấn).
Tasmā imassa veyyākaraṇassa sakkapañhātveva adhivacananti.
Sakkapañhasuttaṁ niṭṭhitaṁ aṭṭhamaṁ.