Kinh Phật thuyết như vậy 43
Itivuttaka 43
Chương Hai Pháp
Dukanipāta
Phẩm Hai
Dutiyavagga
Ajātasutta
Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:
“Này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra.
“Atthi, bhikkhave, ajātaṁ abhūtaṁ akataṁ asaṅkhataṁ.
Này các Tỷ-kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, thì ở đây không thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra.
No cetaṁ, bhikkhave, abhavissa ajātaṁ abhūtaṁ akataṁ asaṅkhataṁ, nayidha jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṁ paññāyetha.
Do vì, này các Tỷ-kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, nên có thể trình bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra.”
Yasmā ca kho, bhikkhave, atthi ajātaṁ abhūtaṁ akataṁ asaṅkhataṁ, tasmā jātassa bhūtassa katassa saṅkhatassa nissaraṇaṁ paññāyatī”ti.
Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:
“Có cái sanh, hiện hữu,
Cái khởi lên làm ra,
Hữu vi không thường hằng,
Tác thành ra già chết,
Một ổ của bệnh hoạn,
Mỏng manh, giòn, dễ vỡ.
“Jātaṁ bhūtaṁ samuppannaṁ,
kataṁ saṅkhatamaddhuvaṁ;
Jarāmaraṇasaṅghāṭaṁ,
roganīḷaṁ pabhaṅguraṁ.
Nhờ đồ ăn nuôi dưỡng,
Nên mới được hiện hữu,
Vật ấy thật không đủ,
Ðể hoan hỷ ưa thích,
Thật có cái xuất ly,
Ra khỏi được cái ấy,
Thật có vượt lý luận.
Āhāranettippabhavaṁ,
nālaṁ tadabhinandituṁ;
Tassa nissaraṇaṁ santaṁ,
atakkāvacaraṁ dhuvaṁ.
Không sanh, không khởi lên,*
Con đường không cấu uế,
Không đưa đến sầu muộn,
Ðoạn diệt các pháp khổ,
Sự tịnh chỉ mọi hành,
An lạc thật tịnh lạc.”
Ajātaṁ asamuppannaṁ,
asokaṁ virajaṁ padaṁ;
Nirodho dukkhadhammānaṁ,
saṅkhārūpasamo sukho”ti.
Ý nghĩa này đã được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.
Chaṭṭhaṁ.