Kinh Phật thuyết như vậy 49
Itivuttaka 49
Chương Hai Pháp
Dukanipāta
Phẩm Hai
Dutiyavagga
Diṭṭhigatasutta
Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:
“Này các Tỷ-kheo, chư Thiên và loài Người bị xâm chiếm bởi hai tà kiến, một số người chấp chặt, một số người đi quá trớn, một số người có mắt thấy được.
“Dvīhi, bhikkhave, diṭṭhigatehi pariyuṭṭhitā devamanussā olīyanti eke, atidhāvanti eke; cakkhumanto ca passanti.
Này các Tỷ-kheo, thế nào là một số người chấp chặt?
Kathañca, bhikkhave, olīyanti eke?
Này các Tỷ-kheo, có chư Thiên và loài Người ưa muốn sanh hữu, khi các pháp đoạn diệt sanh hữu được giảng cho họ, tâm họ không có phấn khởi, không có tín thành, không có an trú, không có bị lôi cuốn.
Bhavārāmā, bhikkhave, devamanussā bhavaratā bhavasammuditā tesaṁ bhavanirodhāya dhamme desiyamāne cittaṁ na pakkhandati na pasīdati na santiṭṭhati nādhimuccati.
Như vậy, này các Tỷ-kheo, đó là một số người chấp chặt.
Evaṁ kho, bhikkhave, olīyanti eke.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là một số người đi quá trớn?
Kathañca, bhikkhave, atidhāvanti eke?
Nhưng có một số người lo âu, xấu hổ, nhàm chán với sanh hữu, hoan hỷ, phi sanh hữu. Họ nói: ‘Vì rằng khi thân hoại mạng chung, tự ngã này bị chặt đứt, bị hoại diệt, không có tồn tại sau khi chết. Quan điểm này là thiết thực, là thù thắng, là chân thật’.
Bhaveneva kho paneke aṭṭīyamānā harāyamānā jigucchamānā vibhavaṁ abhinandanti—yato kira, bho, ayaṁ attā kāyassa bhedā paraṁ maraṇā ucchijjati vinassati na hoti paraṁ maraṇā; etaṁ santaṁ etaṁ paṇītaṁ etaṁ yāthāvanti.
Như vậy này các Tỷ-kheo, đó là một số người đi quá trớn.
Evaṁ kho, bhikkhave, atidhāvanti eke.
Và này các Tỳ Kheo, thế nào là một số có mắt được thấy?
Kathañca, bhikkhave, cakkhumanto passanti?
Ở đây, Tỷ-kheo thấy sự sanh hữu là sanh hữu, sau khi thấy sự sanh hữu, vị ấy hướng đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt.
Idha bhikkhu bhūtaṁ bhūtato passati; bhūtaṁ bhūtato disvā bhūtassa nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.
Như vậy này các Tỷ-kheo, đó là những người có mắt được thấy.”
Evaṁ kho, bhikkhave, cakkhumanto passantī”ti.
Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:
“Những ai đã thấy được,
Sanh hữu là sanh hữu,
Thấy được sự vượt qua,
Của sự sanh hữu ấy,
Những vị ấy giải thoát,
Ðối như thật hiện hữu,
Vì nhờ đoạn diệt được,
Tham ái đối sanh hữu.
“Ye bhūtaṁ bhūtato disvā,
bhūtassa ca atikkamaṁ;
Yathābhūte vimuccanti,
bhavataṇhā parikkhayā.
Nếu vị ấy liễu tri,
Sanh hữu là sanh hữu,
Vị ấy ly tham ái,
Ðối hữu và phi hữu,
Tỷ-kheo quyết phi hữu,
Ðối với chính sanh hữu,
Sẽ không còn đi đến,
Sanh đi rồi sanh lại.”
Sa ve bhūtapariñño so,
vītataṇho bhavābhave;
Bhūtassa vibhavā bhikkhu,
nāgacchati punabbhavan”ti.
Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.
Dvādasamaṁ.
DUTIYO VAGGO.
Tassuddānaṁ
Dve indriyā dve tapanīyā,
sīlena apare duve;
Anottāpī kuhanā dve ca,
saṁvejanīyena te dasa.
Vitakkā desanā vijjā,
paññā dhammena pañcamaṁ;
Ajātaṁ dhātusallānaṁ,
sikkhā jāgariyena ca;
Apāyadiṭṭhiyā ceva,
bāvīsati pakāsitāti.
DUKANIPĀTO NIṬṬHITO.