WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Iti 22 Từ Tâm

Kinh Phật thuyết như vậy 22
Itivuttaka 22

Chương Một Pháp
Ekakanipāta

Phẩm Ba
Tatiyavagga

Mettasutta

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:

“Này các Tỷ-kheo, chớ có sợ hãi các công đức. Này các Tỷ-kheo, công đức là đồng nghĩa với an lạc, cái gì khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý, tức là công đức. Này các Tỷ-kheo, Ta thắng tri thọ hưởng quả dị thục, khả lạc, khả hỷ, khả ái, khả ý trong một thời gian dài của các công đức đã làm trong một thời gian dài. Sau khi tu tập từ tâm trong bảy năm, Ta đã không trở lui lại đời này trong bảy tăng kiếp và hoại kiếp. Trong thời kỳ kiếp tăng, Ta là chư Thiên Quang Âm; Trong thời kỳ kiếp giảm, Ta sanh trong lâu đài trống không ở Phạm Thiên.
“Mā, bhikkhave, puññānaṁ bhāyittha. Sukhassetaṁ, bhikkhave, adhivacanaṁ iṭṭhassa kantassa piyassa manāpassa yadidaṁ puññāni. Abhijānāmi kho panāhaṁ, bhikkhave, dīgharattaṁ katānaṁ puññānaṁ iṭṭhaṁ kantaṁ piyaṁ manāpaṁ vipākaṁ paccanubhūtaṁ. Satta vassāni mettacittaṁ bhāvetvā satta saṁvaṭṭavivaṭṭakappe nayimaṁ lokaṁ punarāgamāsiṁ. Saṁvaṭṭamāne sudaṁ, bhikkhave, kappe ābhassarūpago homi; vivaṭṭamāne kappe suññaṁ brahmavimānaṁ upapajjāmi.

Tại đấy, này các Tỷ-kheo, ta là Phạm Thiên, Ðại Phạm Thiên bậc chinh phục, bậc không bị ai chinh phục, bậc nhìn thấy tất cả, bậc có quyền lực. Này các Tỷ-kheo, ba mươi sáu lần Ta đã là Thiên chủ Ðế Thích. Nhiều trăm lần, Ta đã làm vua, vị vua Chuyển Luân, trị vì đúng pháp, bậc Pháp vương, bậc chiến thắng bốn phương, bậc đã đạt được sự an ổn trong quốc độ, bậc đầy đủ bảy báu. Còn nói gì khi Ta là vị vua ở địa phương.
Tatra sudaṁ, bhikkhave, brahmā homi mahābrahmā abhibhū anabhibhūto aññadatthudaso vasavattī. Chattiṁsakkhattuṁ kho panāhaṁ, bhikkhave, sakko ahosiṁ devānamindo; anekasatakkhattuṁ rājā ahosiṁ cakkavattī dhammiko dhammarājā cāturanto vijitāvī janapadatthāvariyappatto sattaratanasamannāgato. Ko pana vādo padesarajjassa.

Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Quả này là do nghiệp nào Ta đã làm, là quả dị thục của nghiệp nào mà nay, Ta được đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy?”
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, etadahosi: ‘kissa nu kho me idaṁ kammassa phalaṁ, kissa kammassa vipāko, yenāhaṁ etarahi evaṁmahiddhiko evaṁmahānubhāvo’ti?

Rồi này các Tỷ- kheo, Ta suy nghĩ như sau: “Ðây là quả ba nghiệp Ta đã làm, là quả dị thục của ba nghiệp, do vậy Ta nay đựơc đại thần lực như vậy, đại uy lực như vậy. Tức là bố thí, nhiếp phục, chế ngự”.
Tassa mayhaṁ, bhikkhave, etadahosi: ‘tiṇṇaṁ kho me idaṁ kammānaṁ phalaṁ, tiṇṇaṁ kammānaṁ vipāko, yenāhaṁ etarahi evaṁmahiddhiko evaṁmahānubhāvoti, seyyathidaṁ—dānassa, damassa, saññamassā’”ti.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:

“Hãy để cho vị ấy,
Học tập về công đức,
Công đức là lạc căn,
Tối thượng trong tương lai,
Hãy tu tập bố thí,
Sống nếp sống an tịnh,
Và tu tập từ tâm.
“Puññameva so sikkheyya,
āyataggaṁ sukhudrayaṁ;
Dānañca samacariyañca,
mettacittañca bhāvaye.

Sau khi đã tu tập,
Các pháp này như vậy,
Tức là cả ba pháp,
Khiến an lạc sanh khởi,
Bậc Hiền trí được sanh,
Trong thế giới an lạc,
Thế giới không sân hận.”
Ete dhamme bhāvayitvā,
tayo sukhasamuddaye;
Abyāpajjaṁ sukhaṁ lokaṁ,
paṇḍito upapajjatī”ti.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.

Dutiyaṁ.