Kinh Phật thuyết như vậy 27
Itivuttaka 27
Chương Một Pháp
Ekakanipāta
Phẩm Ba
Tatiyavagga
Mettābhāvanāsutta
Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:
“Này các Tỷ-kheo, phàm có những phước nghiệp sự nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp sự ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng những nghiệp sự ấy, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.
“Yāni kānici, bhikkhave, opadhikāni puññakiriyavatthūni sabbāni tāni mettāya cetovimuttiyā kalaṁ nāgghanti soḷasiṁ. Mettāyeva tāni cetovimutti adhiggahetvā bhāsate ca tapate ca virocati ca.
Này các Tỷ-kheo, ví như ánh sáng của chùm sao, tất cả ánh sáng ấy không bằng một phần mười sáu ánh sáng của mặt trăng. Ánh sáng của mặt trăng vượt quả ánh sáng của chùm sao chói sáng, bừng sáng, và rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.
Seyyathāpi, bhikkhave, yā kāci tārakarūpānaṁ pabhā sabbā tā candiyā pabhāya kalaṁ nāgghanti soḷasiṁ, candapabhāyeva tā adhiggahetvā bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṁ kho, bhikkhave, yāni kānici opadhikāni puññakiriyavatthūni sabbāni tāni mettāya cetovimuttiyā kalaṁ nāgghanti soḷasiṁ, mettāyeva tāni cetovimutti adhiggahetvā bhāsate ca tapate ca virocati ca.
Này các Tỷ-kheo, ví như vào tháng cuối mùa mưa, vào mùa thu, trên bầu trời thanh tịnh, các mây được quét sạch, mặt trời mọc lên trên bầu trời, phá tan mọi tối tăm ở hư không, chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy này các Tỷ-kheo, phàm có những nghiệp vụ đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát, vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.
Seyyathāpi, bhikkhave, vassānaṁ pacchime māse saradasamaye viddhe vigatavalāhake deve ādicco nabhaṁ abbhussakkamāno sabbaṁ ākāsagataṁ tamagataṁ abhivihacca bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṁ kho, bhikkhave, yāni kānici opadhikāni puññakiriyavatthūni sabbāni tāni mettāya cetovimuttiyā kalaṁ nāgghanti soḷasiṁ, mettāyeva tāni cetovimutti adhiggahetvā bhāsate ca tapate ca virocati ca.
Ví như này các Tỷ-kheo, khi đêm đã gần tàn, sao mai chói sáng, bừng sáng và rực sáng. Cũng vậy này các Tỷ- kheo, phàm có những nghiệp vụ nào đưa đến sanh y, tất cả những nghiệp vụ ấy không bằng một phần mười sáu từ tâm giải thoát. Chỉ có từ tâm giải thoát vượt qua chúng, chói sáng, bừng sáng và rực sáng.
Seyyathāpi, bhikkhave, rattiyā paccūsasamayaṁ osadhitārakā bhāsate ca tapate ca virocati ca; evamevaṁ kho, bhikkhave, yāni kānici opadhikāni puññakiriyavatthūni sabbāni tāni mettāya cetovimuttiyā kalaṁ nāgghanti soḷasiṁ, mettāyeva tāni cetovimutti adhiggahetvā bhāsate ca tapate ca virocati cā”ti.
Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này đã được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:
“Ai tu tập từ tâm,
Không phóng dật chánh niệm,
Các kiết sử giảm thiểu,
Nhờ thấy sanh y diệt.
“Yo ca mettaṁ bhāvayati,
appamāṇaṁ paṭissato;
Tanū saṁyojanā honti,
passato upadhikkhayaṁ.
Nếu tâm không độc ác,
Ðối với một hữu tình,
Với từ tâm như vậy,
Vị ấy là bậc Thiện,
Với tâm tư từ mẫn,
Ðối tất cả hữu tình,
Bậc Thánh tự tác thành,
Công đức thật vô lượng.
Ekampi ce pāṇamaduṭṭhacitto,
Mettāyati kusalo tena hoti;
Sabbe ca pāṇe manasānukampaṁ,
Pahūtamariyo pakaroti puññaṁ.
Ai chiến thắng quả đất,
Ðầy dẫy những hữu tình,
Bậc vua chúa chơn chánh,
Như các vị tiên nhân,
Tổ chức khắp mọi nơi,
Ðủ các loại tế đàn,
Lễ tế đàn với ngựa,
Lễ tế đàn với người,
Quăng cọc, rượu chiến thắng,
Lễ chốt cửa dẹp lại.
Ye sattasaṇḍaṁ pathaviṁ vijitvā,
Rājisayo yajamānānupariyagā;
Assamedhaṁ purisamedhaṁ,
Sammāpāsaṁ vājapeyyaṁ niraggaḷaṁ.
Họ không tác thành được,
Một phần thứ mười sáu,
Với người khéo tu tập,
Tâm ý thật từ mẫn,
Như ánh sáng mặt trăng,
Thắng sáng mọi vì sao.
Mettassa cittassa subhāvitassa,
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṁ;
Candappabhā tāragaṇāva sabbe.
Ai không có giết hại,
Không khiến người giết hại,
Không có chinh phục người,
Không khiến người chinh phục,
Với tâm tư từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Vị ấy không hận thù,
Ðối với bất cứ ai.”
Yo na hanti na ghāteti,
na jināti na jāpaye;
Mettaṁso sabbabhūtesu,
veraṁ tassa na kenacī”ti.
Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.
Sattamaṁ.