WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Iti 88 Nội Uế Nhiễm

Kinh Phật thuyết như vậy 88
Itivuttaka 88

Chương Ba Pháp
Tikanipāta

Phẩm Bốn
Catutthavagga

Antarāmalasutta

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:

“Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù này, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch này. Thế nào là ba?
“Tayome, bhikkhave, antarāmalā antarāamittā antarāsapattā antarāvadhakā antarāpaccatthikā. Katame tayo?

Tham, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát thủ, nội sát nhân, nội thù địch.
Lobho, bhikkhave, antarāmalo antarāamitto antarāsapatto antarāvadhako antarāpaccatthiko.

Sân, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch.
Doso, bhikkhave, antarāmalo antarāamitto antarāsapatto antarāvadhako antarāpaccatthiko.

Si, này các Tỷ-kheo, là nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch.
Moho, bhikkhave, antarāmalo antarāamitto antarāsapatto antarāvadhako antarāpaccatthiko.

Này các Tỷ-kheo, có ba nội uế, nội thù, nội đối thủ, nội sát nhân, nội thù địch này.”
Ime kho, bhikkhave, tayo antarāmalā antarāamittā antarāsapattā antarāvadhakā antarāpaccatthikā”ti.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, điều này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:

“Tham sanh ra bất hạnh,
Tham làm tâm dao động,
Tham chính là sợ hãi,
Người chẳng thể nào biết.
“Anatthajanano lobho,
lobho cittappakopano;
Bhayamantarato jātaṁ,
taṁ jano nāvabujjhati.

Người tham không biết rõ,
Ðâu chính là lợi ích,
Tham pháp, không thấy được,
Mù lòa và tối tăm,
Bởi tham chinh phục người.
Luddho atthaṁ na jānāti,
luddho dhammaṁ na passati;
Andhatamaṁ tadā hoti,
yaṁ lobho sahate naraṁ.

Ai đoạn trừ được tham,
Dẫn đến tham, không tham,
Với ai tham đoạn trừ,
Như giọt nước lá sen.
Yo ca lobhaṁ pahantvāna,
lobhaneyye na lubbhati;
Lobho pahīyate tamhā,
udabindūva pokkharā.

Sân sanh ra bất hạnh,
Sân làm tâm dao động,
Sân chính là sợ hãi,
Người chẳng thể nào biết.
Anatthajanano doso,
doso cittappakopano;
Bhayamantarato jātaṁ,
taṁ jano nāvabujjhati.

Người sân không biết rõ,
Ðâu chính là lợi ích,
Sân pháp, không thấy được,
Mù lòa và tối tăm,
Bởi sân chinh phục người.
Duṭṭho atthaṁ na jānāti,
duṭṭho dhammaṁ na passati;
Andhatamaṁ tadā hoti,
yaṁ doso sahate naraṁ.

Ai đoạn trừ được sân,
Dẫn đến sân, không sân,
Với ai, sân đoạn trừ,
Như quả cây Tāla,
Bị chặt đứt khỏi cành.
Yo ca dosaṁ pahantvāna,
dosaneyye na dussati;
Doso pahīyate tamhā,
tālapakkaṁva bandhanā.

Si sanh ra bất hạnh,
Si làm tâm dao động,
Si chính là sợ hãi,
Người chẳng thể nào biết.
Anatthajanano moho,
moho cittappakopano;
Bhayamantarato jātaṁ,
taṁ jano nāvabujjhati.

Người si không rõ biết,
Ðâu chính là lợi ích,
Si pháp, không thấy được,
Mù lòa và tối tăm,
Bởi si chinh phục người.
Mūḷho atthaṁ na jānāti,
mūḷho dhammaṁ na passati;
Andhatamaṁ tadā hoti,
yaṁ moho sahate naraṁ.

Ai đoạn trừ được si,
Dẫn đến si, không si,
Với ai, si đoạn trừ,
Như mặt trời mọc lên.”
Yo ca mohaṁ pahantvāna,
mohaneyye na muyhati;
Mohaṁ vihanti so sabbaṁ,
ādiccovudayaṁ taman”ti.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến, và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.

Navamaṁ.