WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Iti 91 Nuôi Mạng

Kinh Phật thuyết như vậy 91
Itivuttaka 91

Chương Ba Pháp
Tikanipāta

Phẩm Năm
Pañcamavagga

Jīvikasutta

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:

“Này các Tỷ-kheo, nghĩa này là nghề tận cùng trong các nghề nuôi sống, tức là đi bát khất thực;
“Antamidaṁ, bhikkhave, jīvikānaṁ yadidaṁ piṇḍolyaṁ.

Này các Tỷ-kheo, danh từ nhiếc mắng ở trong đời là nói rằng: ‘Ông là kẻ đi bát, với bát cầm tay, ông đi khắp mọi nơi’. Tuy vậy chính nghề nuôi sống này được các thiện gia nam tử chấp nhận, những người sống vì lý tưởng, vì duyên sống với lý tưởng, không bị thúc đẩy làm nghề ấy vì sợ vua, vì sợ ăn trộm, vì mắc nợ, vì sợ hãi, không phải vì mất nghề nuôi sống; nhưng vì nghĩ rằng: ‘Nay ta bị rơi vào sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não, bị khổ tràn đầy, bị khổ chinh phục. Rất có thể, một số phương pháp chấm dứt toàn bộ khổ uẩn này có thể trình bày’.
Abhisāpoyaṁ, bhikkhave, lokasmiṁ: ‘piṇḍolo vicarasi pattapāṇī’ti. Tañca kho etaṁ, bhikkhave, kulaputtā upenti atthavasikā, atthavasaṁ paṭicca; neva rājābhinītā, na corābhinītā, na iṇaṭṭā, na bhayaṭṭā, na ājīvikāpakatā. Api ca kho ‘otiṇṇamhā jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi dukkhotiṇṇā dukkhaparetā, appeva nāma imassa kevalassa dukkhakkhandhassa antakiriyā paññāyethā’ti.

Này các Tỷ-kheo, thiện nam tử này xuất gia như vậy, tham ái trong các dục, với lòng tham sắc xảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại.
Evaṁ pabbajito cāyaṁ, bhikkhave, kulaputto. So ca hoti abhijjhālu kāmesu tibbasārāgo, byāpannacitto paduṭṭhamanasaṅkappo, muṭṭhassati asampajāno asamāhito vibbhantacitto pākatindriyo.

Này các Tỷ- kheo, như một que lửa lấy từ chỗ thiêu xác, cả hai đầu đều cháy đỏ, ở giữa lại lắm phân, không hoàn thành được mục đích làm que củi ở trong làng hay ở trong rừng. Này các Tỷ- kheo, Ta nói người này như ví dụ như vậy, dầu cho bỏ tài sản gia đình nhưng không làm viên mãn mục đích Sa-môn hạnh.”
Seyyathāpi, bhikkhave, chavālātaṁ ubhatopadittaṁ majjhe gūthagataṁ neva gāme kaṭṭhatthaṁ pharati na araññe; tathūpamāhaṁ, bhikkhave, imaṁ puggalaṁ vadāmi gihibhogā parihīno sāmaññatthañca na paripūretī”ti.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây điều này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:

“Rời tài sản gia đình,
Sa-môn hạnh không thành,
Đưa đến sự tổn hại,
Như que củi thiêu xác,
Đi đến chỗ hoại vong.
“Gihibhogā parihīno,
Sāmaññatthañca dubbhago;
Paridhaṁsamāno pakireti,
Chavālātaṁva nassati.

Nhiều người mặc Cà-sa,
Không chế ngự ác Pháp,
Làm ác, nhân đưa tới,
Nơi địa ngục sanh vào.
Kāsāvakaṇṭhā bahavo,
pāpadhammā asaññatā;
Pāpā pāpehi kammehi,
nirayaṁ te upapajjare.

Ác giới, không chế ngự,
Tốt hơn nuốt hòn sắt,
Cháy đỏ như cục lửa,
Hơn ăn đồ tín thí.”
Seyyo ayoguḷo bhutto,
tatto aggisikhūpamo;
Yañce bhuñjeyya dussīlo,
raṭṭhapiṇḍamasaññato”ti.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.

Dutiyaṁ.