Kinh Phật thuyết như vậy 92
Itivuttaka 92
Chương Ba Pháp
Tikanipāta
Phẩm Năm
Pañcamavagga
Saṅghāṭikaṇṇasutta
Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:
“Này các Tỷ-kheo, nếu một Tỷ-kheo nắm lấy viền áo Tăng-già lê đi theo sau lưng Ta, chân bước theo chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với lòng tham sắc xảo, với tâm sân hận, ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, tâm tán loạn, với các căn hoang dại, vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa vị ấy. Vì cớ sao?
“Saṅghāṭikaṇṇe cepi, bhikkhave, bhikkhu gahetvā piṭṭhito piṭṭhito anubandho assa pāde pādaṁ nikkhipanto, so ca hoti abhijjhālu kāmesu tibbasārāgo byāpannacitto paduṭṭhamanasaṅkappo muṭṭhassati asampajāno asamāhito vibbhantacitto pākatindriyo; atha kho so ārakāva mayhaṁ, ahañca tassa. Taṁ kissa hetu?
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy không thấy Pháp. Do không thấy Pháp nên không thấy Ta.
Dhammañhi so, bhikkhave, bhikkhu na passati. Dhammaṁ apassanto na maṁ passati.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo sống xa đến một trăm do-tuần và vị ấy không có tham ái trong các dục, với lòng tham không sắc xảo, tâm không sân hận, ý tư duy không nhiễm ác, chánh niệm tỉnh giác, định tĩnh nhất tâm, các căn được chế ngự, vị ấy gần hẳn Ta và Ta gần vị ấy. Vì cớ sao?
Yojanasate cepi so, bhikkhave, bhikkhu vihareyya. So ca hoti anabhijjhālu kāmesu na tibbasārāgo abyāpannacitto apaduṭṭhamanasaṅkappo upaṭṭhitassati sampajāno samāhito ekaggacitto saṁvutindriyo; atha kho so santikeva mayhaṁ, ahañca tassa. Taṁ kissa hetu?
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy thấy Pháp. Do thấy Pháp nên thấy Ta.”
Dhammañhi so, bhikkhave, bhikkhu passati; dhammaṁ passanto maṁ passatī”ti.
Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây điều này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:
“Nếu có thể bước theo,
Nhưng nhiều dục bực phiền,
Hãy xem người như vậy,
Thật là xa, rất xa,
Xa giữa người ái dục,
Và người không ái dục,
Xa giữa người lắng dịu,
Và người không lắng dịu,
Xa giữa người tham ái,
Và người đã trừ ái.
“Anubandhopi ce assa,
mahiccho ca vighātavā;
Ejānugo anejassa,
nibbutassa anibbuto;
Giddho so vītagedhassa,
passa yāvañca ārakā.
Sau khi thắng tri Pháp,
Bậc Hiền trí biết Pháp,
Như ao không gió thổi,
Không dao động, tịnh chỉ.
Yo ca dhammamabhiññāya,
dhammamaññāya paṇḍito;
Rahadova nivāte ca,
anejo vūpasammati.
Hãy xem người như vậy,
Thật là gần, rất gần,
Gần giữa người không ái,
Và người đoạn trừ ái,
Gần giữa người lắng dịu,
Và người được lắng dịu,
Gần giữa người không tham,
Và người trừ tham ái.”
Anejo so anejassa,
nibbutassa ca nibbuto;
Agiddho vītagedhassa,
passa yāvañca santike”ti.
Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.
Tatiyaṁ.