WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Iti 93 Lửa

Kinh Phật thuyết như vậy 93
Itivuttaka 93

Chương Ba Pháp
Tikanipāta

Phẩm Năm
Pañcamavagga

Aggisutta

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:

“Này các Tỷ-kheo, có ba loại lửa này. Thế nào là ba?
“Tayome, bhikkhave, aggī. Katame tayo?

Lửa tham, lửa sân, lửa si.
Rāgaggi, dosaggi, mohaggi—

Này các Tỷ-kheo, có ba loại lửa này.”
ime kho, bhikkhave, tayo aggī”ti.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây điều này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:

“Lửa tham đốt cháy người,
Say mê trong các dục,
Còn lửa sân đốt cháy,
Những người có sân hận,
Những người giết, sát hại,
Các loại có sanh mạng.
“Rāgaggi dahati macce,
ratte kāmesu mucchite;
Dosaggi pana byāpanne,
nare pāṇātipātino.

Còn lửa si đốt cháy,
Những kẻ bị mê muội,
Những kẻ không tinh luyện,
Trong giáo pháp bậc Thánh,
Do không được biết rõ,
Các loại lửa như vậy,
Nên loài Người ưa thích,
Vui thích với có thân.
Mohaggi pana sammūḷhe,
ariyadhamme akovide;
Ete aggī ajānantā,
sakkāyābhiratā pajā.

Họ làm cảnh dịa ngục,
Ðược lớn mạnh tăng trưởng,
Kể cả giới bàng sanh,
Chỗ sanh xứ súc vật,
Cùng với A-tu-la,
Với cảnh giới quỷ đói,
Họ không được thoát khỏi,
Trói buộc của Ác ma.
Te vaḍḍhayanti nirayaṁ,
tiracchānañca yoniyo;
Asuraṁ pettivisayaṁ,
amuttā mārabandhanā.

Ai ngày, đêm chuyên học,
Giáo Pháp bậc Chánh Giác,
Luôn quán chiếu bất tịnh,
Làm lắng dịu lửa tham.*
Ye ca rattindivā yuttā,
sammāsambuddhasāsane;
Te nibbāpenti rāgaggiṁ,
niccaṁ asubhasaññino.

Với lòng thương, từ mẫn,
Những hạng người tối thượng,
Làm lắng dịu, chỉ tịnh,
Ngọn lửa của sân hận.
Dosaggiṁ pana mettāya,
nibbāpenti naruttamā;

Còn ngọn lửa si mê,
Với trí tuệ dập tắt,
Trí tuệ này đưa đến,
Thể nhập vào chân lý.
Mohaggiṁ pana paññāya,
yāyaṁ nibbedhagāminī.

Bậc thận trọng sáng suốt,
Ngày đêm làm lắng dịu,
Các loại lửa như vậy,
Dập tắt tâm uế nhiễm,
Vượt qua khổ hoàn toàn.*
Te nibbāpetvā nipakā,
rattindivamatanditā;
Asesaṁ parinibbanti,
asesaṁ dukkhamaccaguṁ.

Những bậc Thánh đã thấy,
Bậc trí tuệ hiểu biết,
Là những bậc Hiền trí,
Thấy được nhờ chánh trí,
Do họ thắng tri được,
Sự diệt tận của sanh,
Nên họ không đi đến,
Sanh đi rồi sanh lại.”
Ariyaddasā vedaguno,
sammadaññāya paṇḍitā;
Jātikkhayamabhiññāya,
nāgacchanti punabbhavan”ti.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.

Catutthaṁ.