WikiDhamma

Thư Viện Nghiên Cứu Phật Giáo


Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, 
Bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chánh Giác
Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Iti 76 Ước Muốn

Kinh Phật thuyết như vậy 76
Itivuttaka 76

Chương Ba Pháp
Tikanipāta

Phẩm Ba
Tatiyavagga

Sukhapatthanāsutta

Ðiều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A-la-hán nói đến, và tôi đã được nghe:
Vuttañhetaṁ bhagavatā vuttamarahatāti me sutaṁ:

“Do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới. Thế nào là ba?
“Tīṇimāni, bhikkhave, sukhāni patthayamāno sīlaṁ rakkheyya paṇḍito. Katamāni tīṇi?

“Mong rằng lời tán thán sẽ đến với ta”, bậc Hiền trí hộ trì giới. “Mong rằng, tài sản sẽ khởi lên cho ta”, bậc Hiền trí hộ trì giới. “Mong rằng khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này” bậc Hiền trí hộ trì giới.
Pasaṁsā me āgacchatūti sīlaṁ rakkheyya paṇḍito, bhogā me uppajjantūti sīlaṁ rakkheyya paṇḍito, kāyassa bhedā paraṁ maraṇā sugatiṁ saggaṁ lokaṁ upapajjissāmīti sīlaṁ rakkheyya paṇḍito.

Này các Tỷ-kheo, do hy vọng được ba lạc này, bậc Hiền trí hộ trì giới.”
Imāni kho, bhikkhave, tīṇi sukhāni patthayamāno sīlaṁ rakkheyya paṇḍito”ti.

Thế Tôn đã nói lên ý nghĩa này. Ở đây, ý nghĩa này được nói đến:
Etamatthaṁ bhagavā avoca. Tatthetaṁ iti vuccati:

“Bậc trí hộ trì giới,
Hy vọng được ba lạc,
Ðược khen, được tài sản,
Ðời sau sống hoan hỷ,
Trong cảnh giới chư Thiên.
“Sīlaṁ rakkheyya medhāvī,
patthayāno tayo sukhe;
Pasaṁsaṁ vittalābhañca,
pecca sagge pamodanaṁ.

Nếu không làm điều ác,
Nhưng theo kẻ làm ác,
Thì bị nghi làm ác,
Tiếng xấu bị đồn xa.
Akarontopi ce pāpaṁ,
karontamupasevati;
Saṅkiyo hoti pāpasmiṁ,
avaṇṇo cassa rūhati.

Như xây tình bằng hữu,
Cả hai cùng kết giao,
Người này giống người kia,
Bởi cộng trú cùng nhau.
Yādisaṁ kurute mittaṁ,
yādisaṁ cūpasevati;
Sa ve tādisako hoti,
sahavāso hi tādiso.

Kết giao, kết giao theo,
Xúc chạm, xúc chạm theo,
Như mũi tên nhiễm độc,
Nhiễm luôn cả bó tên,
Bậc trí sợ ô nhiễm,
Không làm bạn kẻ ác.
Sevamāno sevamānaṁ,
samphuṭṭho samphusaṁ paraṁ;
Saro diddho kalāpaṁva,
alittamupalimpati;
Upalepabhayā dhīro,
neva pāpasakhā siyā.

Như ngon cỏ Ku-sa,
Dùng gói đồ cá thúi,
Ku-sa có mùi thúi,
Cùng như gần kẻ ngu.
Pūtimacchaṁ kusaggena,
yo naro upanayhati;
Kusāpi pūti vāyanti,
evaṁ bālūpasevanā.

Hương Lài, hương Gièng Gièng,
Người nào mang gói lại,
Đưa tới mùi hương thơm,
Cũng vậy, bậc trí gần.
Tagarañca palāsena,
yo naro upanayhati;
Pattāpi surabhi vāyanti,
evaṁ dhīrūpasevanā.

Nhờ nghĩ đến gói lá,
Hiểu biết quả đã làm,
Với ác, không kết giao,
Bậc trí gần bậc trí,
Kẻ ác rơi địa ngục,
Bậc trí tái sanh thiên.”
Tasmā pattapuṭasseva,
ñatvā sampākamattano;
Asante nupaseveyya,
sante seveyya paṇḍito;
Asanto nirayaṁ nenti,
santo pāpenti suggatin”ti.

Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe.
Ayampi attho vutto bhagavatā, iti me sutanti.

Sattamaṁ.