Chuyện Tiền Thân Đức Thế Tôn
Jātaka
Chương Bốn
Catukkanipāta
Phẩm Kāliṅga
Kāliṅgavagga
Ja 310 Seyyajātaka
Chuyện này do bậc Ðạo Sư kể khi Ngài trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo thối thất.
Tỷ-kheo này trong khi đi khất thực ở Xá-vệ, đã trông thấy một phụ nữ đẹp, rồi từ đó trở nên buồn chán và mất hết an lạc trong Ðạo pháp. Các Tỷ-kheo đưa ông ra trước đức Thế Tôn. Ngài dạy:
– Này Tỷ-kheo, Ta nghe nói ông cứ buồn chán, có thật thế không?
Ông thú thật quả như thế. Sau khi biết được lý do buồn chán của ông, bậc Ðạo Sư dạy:
– Này Tỷ-kheo, tại sao ông lại khao khát cuộc đời sau khi đã thọ trì Pháp, Luật đưa đến Giải thoát? Các trí giả ngày xưa, khi được ban vinh dự làm Đạo Sĩ trong Hoàng Cung, đã từ bỏ chức vị ấy và sống đời khổ hạnh.
Rồi Ngài kể cho các Tỷ-kheo nghe một chuyện đời xưa.
*
Ngày xưa, khi vua Brahmadatta trị vì ở Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai bà vợ một Bà-la-môn Đạo Sĩ trong Hoàng Cung và ra đời cùng một ngày với thái tử con vua. Khi vua hỏi các quan rằng có đứa trẻ nào sinh cùng ngày với thái tử không thì họ bảo:
– Tâu Ðại vương có, đó là một đứa con của Đạo Sĩ trong Hoàng Cung.
Thế là vua truyền mang Bồ-tát đến giao cho các nhũ mẫu săn sóc cẩn thận cùng với thái tử ấu thơ kia. Cả hai cùng có đồ trang sức, cùng ăn, cùng uống các thứ như nhau. Khi lớn lên, họ cùng đến học ở Takkasilā và chẳng bao lâu đều thành đạt mọi học thuật rồi trở về.
Vua phong cho con làm phó vương và ban danh dự lớn lao cho Bồ-tát. Từ đó Bồ-tát cùng ăn, cùng uống, cùng sống với thái tử. Giữa hai người nảy nở một tình bằng hữu vững bền. Ít lâu sau, vua cha mất, thái tử lên nối ngôi và hưởng phú quí khôn cùng. Bồ-tát tự nghĩ: “Giờ đây bạn ta trị vì vương quốc; khi có dịp thích đáng thế nào ông cũng phong cho ta ngôi vị Đạo Sĩ trong Hoàng Cung. Ta phải làm gì với cuộc đời của một gia chủ đây? Ta muốn trở thành một nhà tu khổ hạnh, dấn thân vào đời độc cư”.
Vì thế, ngài đến đảnh lễ cha mẹ, xin được chấp trì giới hạnh. Ngài chối bỏ mọi của cải của trần gian và từ đó xuất gia một mình đi vào vùng Tuyết Sơn. Tại đó, trên một khoảnh đất thích hợp, ngài tự dựng một túp lều sống đời Phạm hạnh của một ẩn sĩ, ngài phát huy các thắng trí và các Thiền chứng và hưởng an lạc của cuộc sống huyền nhiệm.
Bấy giờ, vua nhớ đến ngài và bảo:
– Không biết bạn ta thế nào rồi nhỉ? Sao không hề thấy ông ta đâu cả?
Các cận thần bảo rằng ngài đã chấp trì giới hạnh và nghe nói ngài đang sống trong một khu rừng tịnh lạc nào đó. Vua hỏi trú xứ của ngài và bảo một quốc sư tên Sayha:
– Hãy đi mang bạn ta về đây. Ta sẽ phong cho ông ấy làm giáo sĩ của ta.
Sayha sẵn sàng tuân lệnh. Từ Ba-la-nại ông đi mãi đến một làng ở biên địa và trú ở đó, rồi cùng với vài người kiểm lâm đến nơi Bồ-tát ở. Ông thấy Bồ-tát ngồi như một bức tượng vàng trước túp lều của ngài. Sau khi chào hỏi, cung chúc theo thường lệ, ông ngồi xuống, cách một khoảng để tỏ lòng kính cẩn, và bảo:
– Thưa Tôn giả, đức vua muốn ngài quay trở về vì đang nóng lòng phong ngài lên ngôi vị Đạo Sĩ trong Hoàng Cung.
Bồ-tát trả lời:
– Nếu ngoài chức giáo sĩ ra, ta còn được trao thêm cả nước Kāsi và Kosala, cả vương quốc Ấn Ðộ, cả sự vinh quang của một đế quốc hoàn vũ, ta cũng không chấp nhận đâu. Bậc trí giả không mang lấy những tội lỗi mà họ đã từng từ bỏ cũng giống như họ không nuốt cục đàm mà họ đã khạc ra.
Rồi ngài đọc các bài kệ sau:
“Như nước lượn quanh thỏ1Trong sử thi Mahabharata, Bhishma Parva (Quyển 5), Jamvu-khanda Nirvana Parva (Chương 6), câu 15 & 16, mô tả thế giới (gọi là Sudarshana). Mô tả thế giới hình con Thỏ và Lá Sung được bao bọc bởi nước. Tham khảo https://dharmyog.com/world-map-in-hindu-scriptures/,
Đại địa biển lượn quanh,
Không mong, không quở trách,
Sayha, biết như vậy.
“Sasamuddapariyāyaṁ,
mahiṁ sāgarakuṇḍalaṁ;
Na icche saha nindāya,
evaṁ seyya vijānahi.
Hỡi này, Bà-la-môn,
Được danh và tài sản,
Hiện tại, hành phi pháp,
Đọa xứ vào vị lai.
Dhiratthu taṁ yasalābhaṁ,
dhanalābhañca brāhmaṇa;
Yā vutti vinipātena,
adhammacaraṇena vā.
Du hành, sống phạm hạnh,
Cầm bát xin từng nhà,
Sống nuôi mạng như vậy,
Hơn tầm cầu phi pháp.
Api ce pattamādāya,
anagāro paribbaje;
Sāyeva jīvikā seyyo,
yā cādhammena esanā.
Du hành, sống phạm hạnh,
Cầm bát xin từng nhà,
Sống đời không hại người,
Vương quyền không thể sánh.”
Api ce pattamādāya,
anagāro paribbaje;
Aññaṁ ahiṁsayaṁ loke,
api rajjena taṁ varan”ti.
Seyyajātakaṁ dasamaṁ.
Mặc dù Sayha cứ năn nỉ mãi, Bồ-tát cũng không chấp nhận yêu cầu của ông ta. Không thể nào khuyên nhủ được Bồ-tát, Sayha đành tạ từ quay về trình vua là ngài từ chối trở lại.
*
Khi bậc Ðạo Sư kể xong Pháp thoại này, Ngài tuyên thuyết Tứ Ðế. Khi kết thúc Tứ Ðế, Tỷ-kheo thối thất kia đắc quả Dự Lưu, và nhiều Tỷ-kheo khác cũng đạt các quả vị như thế. Thế rồi bậc Ðạo Sư nhận diện Tiền thân:
– Bấy giờ Ānanda là vị vua, Xá-lợi-phất là Sayha, còn Ta là vị Đạo Sĩ trong Hoàng Cung.
Kāliṅgavaggo paṭhamo.
Tassuddānaṁ
Vivarañca adeyya samiddhavaraṁ,
Atha daddara pāpamahātiraho;
Atha koli palāsavarañca kara,
Carimaṁ sasamuddavarena dasāti.
Ghi chú:
- 1Trong sử thi Mahabharata, Bhishma Parva (Quyển 5), Jamvu-khanda Nirvana Parva (Chương 6), câu 15 & 16, mô tả thế giới (gọi là Sudarshana). Mô tả thế giới hình con Thỏ và Lá Sung được bao bọc bởi nước. Tham khảo https://dharmyog.com/world-map-in-hindu-scriptures/